Saturday, April 2, 2011

Thơ Nguyễn Trãi - Đại Việt Cổ Thi



暮春即事  阮廌

閑中盡日閉書齋,
門外全無俗客來。
杜宇聲中春向老,
一庭疏雨楝花開。

Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi

Nhàn trung tận nhật bế thư trai ,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai .
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão,
Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai .


Cảnh cuối xuân

Thư phòng nhàn nhã một mình ta
Cổng ngoài khép chặc chẵng khách qua
Đỗ quyên giục vội mùa xuân muộn
Mưa bụi cùng xoan trắng ngõ nhà


Badmonk - Tâm Nhiên




仙 遊 寺 -  阮 廌

短 棹 繫 斜 陽,
匆 匆 謁 上 方。
雲 歸 禪 榻 冷,
花 落 澗 流 香。
日 暮 猿 聲 急,
山 空 竹 影 長。
箇 中 真 有 意,
欲 語 忽 還 忘。


Tiên Du tự - Nguyễn Trãi

Đoản trạo hệ tà dương,
Thông thông yết thượng phương.
Vân quy Thiền sáp lãnh,
Hoa lạc giản lưu hương.
Nhật mộ viên thanh cấp,
Sơn không trúc ảnh trường.
Cá trung chân hữu ý,
Dục ngữ hốt hoàn vương (vong).
 
Chùa Tiên Du

Buộc thuyền trong bóng chiều rơi,
Lên chùa lễ Phật, gởi đời viễn phương .
Mây về quấn lạnh thiền đường,
Hoa rơi bên suối còn hương cánh tàn .
Vượn kêu gọi bạn lẻ đàn,
Núi quang vạch bóng trúc càng dài ra .
Như chừng ý cảm giao hòa,
Miệng vừa định nói bỗng ta quên lời ...


Badmonk - Tâm Nhiên 


Chùa Tiên Du : Còn có tên là chùa  Phật Tích có tên chữ là "Vạn Phúc Tự" nằm lưng chừng sườn núi Phật Tích, thuộc thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Theo thư tịch cổ thì chùa Phật Tích là cái nôi Phật giáo du nhập vào nước ta. Vào thời Lý, chùa Phật Tích được xây dựng là Ðại danh lam.




寨 頭 春 渡 -  阮 廌

渡 頭 春 草 綠 如 煙,
春 雨 添 來 水 拍 天 。
野 徑 荒 涼 行 客 少,
孤 舟 鎮 日擱 沙 眠 。


Trại đầu xuân độ - Nguyễn Trãi

Ðộ đầu xuân thảo lục như yên,
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên.
Dã kính hoang lương hành khách thiểu,
Cô chu trấn nhật các sa miên.


Bến xuân ở đầu trại

Cỏ xuân xanh lẫn khói trời
Thêm mưa bụi xuống thêm vời vợi xa
Đường quê ngõ vắng khách qua
Con thuyền gát bãi hoàng sa ngủ vùi ...

Badmonk - Tâm Nhiên 


Nguyễn Trãi (1380 - 1442 ) hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần.
Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước ta Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên , ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc. Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 - 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442.
Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan.

No comments:

Post a Comment