Sunday, November 15, 2009

RÊU PHONG TRÊN NGHĨA TRANG CÁC THÁI GIÁM

       Có lẽ ,họ là lớp người chiếm số lượng ít nhất (và không thể xác định) trong đời sống xã hội Phong kiến . Họ không thuộc về bất kỳ một giai cấp Xã hội nào , bởi sinh ra để làm nô bộc , nhưng ân sủng và quyền hạn đạt được rất lớn , đôi khi còn lấn át cả các bậc Công hầu .
Họ là các Thái Giám . Suốt đời sống trong cung cấm nhưng không được bàn dự việc triều đình , chẳng thuộc hàng quan lại , cũng không mấy khi ló mặt ra đường , tên tuổi họ không thuộc về chính sử . Không có con cái nối dõi , số phận còn bắt buộc họ phải chối bỏ họ hàng thân quyến , nên khi lìa đời họ cũng chẳng có người khói hương . Sinh ra trong khiếm khuyết , các thái giám ra đi trong quên lãng . Vết tích duy nhất về họ còn lưu lại đến ngày nay là vài mươi ngôi mộ ẩn sau 4 bức tường rêu phủ nằm trong khuôn viên chùa Từ Hiếu ( TP Huế), một ngôi chùa còn được gọi bằng cái tên khác là " chùa Thái Giám " ..

    CẤM CUNG CỐ SỬ

Người đời , nhất là cánh đàn ông , thường bảo "sướng như vua " để bày tỏ lòng ao ước và nỗi … ghen tị về một sự hưởng thụ vương giả khi bên cạnh có hàng trăm cung tần , mỹ nữ chờ đợi và chiều chuộng .Thế nhưng , những ông vua thực sự thì chưa chắc đã nghĩ thế . Thậm chí đời sống đế vương trong chốn hậu cung đối với họ còn là nỗi khổ ải , cực hình . Vua Gia Long ( 1762-1820) ,người có tới hàng chục năm bôn tẩu , chinh chiến , trước khi đoạt được quyền lực và ngai vàng (1802), khi lên làm vua có hơn 100 phi thứ cung tần , đã từng phải ngữa mặt than : " Trị nước còn dể dàng hơn,không khó nhọc bằng trị chốn nội cung của mình " .Trong một lần "giãi bày tâm sự "riêng tư với J.B . Chaigneau , một cận thần người Pháp của mình ,vua Gia Long đã lắc đầu ngao ngán :" Khanh không thể tưởng tượng cái gì đang đợi trẫm ở đấy (chốn hậu cung) đâu . Vào trong đó trẫm phải gặp một lũ quỷ sứ thật sự . Chúng cãi vả nhau, cấu xé nhau , phỉ báng nhau và sau đó tất cả cùng chạy đến cầu xin trẫm phân xử … Trẫm sẽ ở giữa một đám yêu phụ làm trẫm điếc tai , nhức óc ".
Tuy khốn khổ vì số lượng "các bà " quá dư thừa , quá nhiễu sự nhưng vua Gia Long cũng như tất cả các ông vua khác của triều Nguyễn vẩn không thể loại bỏ bớt số lượng phi tần , bởi lẽ, họ đều là con gái của các quan Đại thần đang nắm giữ các vị trí " lương đống " của quốc gia , được vua đồng ý " nạp thiếp" như một lời hứa bảo đảm địa vị chính trị hoặc một thứ ân sủng .Theo thời gian , dù tuổi tác của vua ngày một tăng thì hằng năm , các vị đại thần vẩn tiếp tục đem dâng các cô con gái xinh đẹp vừa chớm tuổi cập kê của mình lên cho "ngài ngự" . Để bảo đảm không xảy ra bất hòa , hiềm khích , chia rẽ giữa đám trọng thần , các bậc đế vương lại đành nhắm mắt chấp nhận thêm một mớ " quỷ sứ " vốn đã đầy kín trong tam cung , lục viện .
Trong thực tế,các hoàng đế triều Nguyễn như Gia Long,Minh Mạng ,Thiệu Trị ,Tự Đức, Đồng Khánh …mổi người đều có hơn 100 phi tần . Trong số này ngôi "quán quân" thuộc về vua Minh Mạng .Ông có đến 236 bà vợ . Ngay sau khi vua Minh Mạng đăng quang (14/02/1820 ) quan ngự y Lê Quốc Chước đã chế ra một thứ rượu bổ có công dụng giúp vua " nhất dạ ngũ giao tam hữu tử " và kích thích tiêu hoá , bồi bổ sức khoẻ . Công dụng của thứ thuốc bổ này như thế nào , người phàm không phải là vua ,không được dùng e khó biết nhưng thật sự là vua Minh Mạng đã có đến 142 hoàng tử và công chúa . Vua Đồng Khánh cũng có trên 100 bà vợ nhưng chỉ hạ sinh được 4 hoàng tử và 2 công chúa . Vua Tự Đức thậm chí còn đáng buồn hơn , hơn 100 bà vẩn không có con . Ông phải nuôi ba người con nuôi ,sau này đều lên ngôi hoàng đế .Người thứ nhất là Ưng Chân (1852-1885) ,con trai của Hường Y (Thoại Thái Vương ), lên ngôi trở thành vua Dục Đức , ở ngôi chỉ 3 ngày đã bị Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường truất ngôi và bức tử . Người thứ hai là Ưng Đăng (1869-1884) con thứ ba của Hồng Cai (Kiến Thái Vương) làm vua lấy niên hiệu là Kiến Phúc ,ở ngôi 8 tháng thì bị bệnh ,băng hà .Người thứ ba là Ưng Kỷ (1864-1889),con trai trưởng của Hồng Cai,sau khi vua Hàm Nghi bôn tẩu (14/09/1885 ),được người Pháp đưa lên làm vua ,lấy hiệu là Đồng Khánh ,ở ngôi được 4 năm thì mất.

   THÂN PHẬN NHỮNG KẺ MẶC ÁO XANH

Để tổ chức quản lý đám cung tần mỹ nữ quá đông đúc và rắc rối nơi hậu cung , một lớp thái giám đã được đưa vào Tử Cấm Thành .Công việc của họ là hầu hạn nhà vua trong các việc liên quan đến chuyện gối chăn . Họ phải sắp xếp thứ tự,lên danh sách các phi, tần và sắp xếp lịch, giờ để vua " ngự dâm ", ghi chép lại danh tánh các bà phi đó cùng với giờ giấc , ngày tháng cẩn thận để sau này nếu bà phi có con với vua sẽ được xác nhận , tránh sự nhầm lẩn tai hại có thể xảy ra . Một số thái giám khác được điều sang phục dịch , hầu hạ các cung phi goá bụa của vua đời trước tại các lăng tẩm .
Để phân biệt với lớp quan lại khác , họ được cấp một loại trang phục riêng bằng lụa xanh , dệt hoa trước ngực , đội một thứ mũ cứng hoặc khăn đóng .Khi sống, họ lo phục dịch trong Tử Cấm thành hoặc lăng tẩm . Đến khi già yếu , họ buộc phải rời Đại Nội , ra dưỡng bệnh hoặc nằm chờ chết tại một tòa nhà ở phía bắc Hoàng thành , gọi là cung Giám Viện, không được chết cùng nơi vốn là chốn dành riêng cho vua chúa hoặc Hoàng gia.
Dưới triều Gia Long, các thái giám vẩn được tham gia quốc sự . Ngay từ khi mới xưng vương ở miền Nam(1780) Nguyễn Ánh đã đặc biệt tin cẩn , cất nhắc một thái giám tên là lê Văn Duyệt .Phò Gia Long lập đưọc nhiều công trạng nên khi Gia Long lên ngôi , Lê Văn Duyệt được phong Tổng Trấn Gia Định thành , thực quyền như một vị phó vương tại phương Nam.Theo bài viết của Công sứ A. Laborde đăng trong tập 5 bộ B.A.K.H ( Những người bạn của cố đô Huế) xuất bản năm 1918 thì đến triều Minh Mạng ,Tả Quân Lê Văn Duyệt bị Tân vương ghét bỏ vì ông ủng hộ Hoàng Tử Anh , cháu nội của dòng chính lên ngôi vua , phản đối sự kế vị vua Gia Long của Minh Mạng ( Hoàng tử Đảm).Tả quân còn công khai chỉ trích thái độ " bài Tây " -ngược với vua Gia Long - của vua Minh Mạng .Tuy nhiên do uy tín và vị trí của Lê Văn Duyện tại Nam Kỳ quá lớn nên sau khi ông mất ( 1832) ,hành động trả thù của vua Minh Mạng mới diển ra . Hàng loạt bà con thân thích ,tay chân của Lê Văn Duyệt đã bị bãi chức , tống ngục ,dẫn đến cuộc bạo loạn của Lê Văn Khôi ,con nuôi của Lê Văn Duyệt .Tuy nhiên chỉ trong một thời gian ngắn, cuộc bạo loạn của Lê Văn Khôi bị dập tắt .
Từ mối ác cảm này , đồng thời để hạn chế sự lộng hành của các thái giám , ngày 17 tháng 3 năm 1836, vua Minh Mạng đã ban bố một tờ dụ khắc vào bia Văn Miếu ,trong đó có quy định rõ các thái giám tuyệt đối không được tham gia triều chính , không được xếp vào hàng quan lại. Thay vào đó , đội ngũ thái giám được chia thành 5 đẳng trật : Thủ đẳng , thứ đẳng,trung đẳng, á đẳng và hạ đẳng , mổi đẳng trật lại chia thành hai cấp với bổng lộc hàng tháng từ 24 quan tiền ,24 bát gạo đến 72 quan tiền và 48 bát gạo .Đến đời vua Thành Thái năm thứ hai


(1890) chế độ lương trả bằng tiền và gạo bị xoá bỏ, thay bằng lương trả bằng tiền với 7 mức, từ 180 đồng đến 540 đồng /năm .
Tuy bản thân không đạt được vinh dự như hàng quan tước,song các thái giám vẩn có thể đem lại cho cha mẹ, họ hàng của họ những quyền lợi nhất định . Những thái giám thuộc 3 đẳng trật cao nhất ( Quảng vụ,Điển sự,Kiểm sự và Phụng nghi ) có thể xin chức Nhiêu Phụ (cho cha) hoặc Miễn Nhiêu ( cho em, cháu) để họ được miển thuế cả đời . Dưới ba bậc này,các thái giám không được xin cho cha ,chỉ được xin cho em hoặc cháu .


Có hai loại thái giám là: giám sinh và giám lặt . Giám lặt là những người bình thường , chấp nhận bị thiến để được vào cung sống bên cạnh hầu hạ các bà , đề phòng xảy ra ' sự cố " .Giám sinh là những người bẩm sinh ngay từ khi mới chào đời đã không có sinh thực khí dù của đàn ông hay của đàn bà .Luật triều Nguyễn năm Minh Mạng thứ 16 (1836) quy định khi có giám sinh chào đời , cha mẹ đứa trẻ phải báo ngay cho làng ,xã để lập danh sách báo lên cho Bộ Lễ nắm .Khi đứa trẻ lên 10, Bộ Lễ sẽ đưa nó vào cung ,dạy dổ đứa trẻ đầy đủ những lễ nghi phức tạp về kiến thức,cách xử sự trong hoàng cung để khi nó lớn lên thì tuyển vào đội quân thái giám . Làng nào dấu diếm " giám sinh " sẽ bị phạt nặng .
Làng nào có giám sinh nghiễm nhiên sẽ được miễn thuế 3 năm, xem như có đại phúc .Vì thế những đứa trẻ giám sinh bị khiếm khuyết không những không bị coi thường mà còn được dân làng cung kính gọi là " ông Bộ " . Tài liệu của Công sứ A . Laborde ghi nhận,trong dân quê một số vùng,người ta vẩn thường bảo nhau bằng câu cửa miệng :"Ăn mà đẻ "ông Bộ " cho làng nhờ " (!) .
Ước lượng ở giai đoạn đầu triều Nguyễn mỗi thời thường xuyên có khoảng 200 người . Cả giám sinh lẩn giám lặt . Đến thời vua Thành Thái (1879-1954) số lượng thái giám giảm hẳn, chỉ còn 15 người .Vua Duy Tân (1899-1945) chỉ duy nhất một lần " nạp thiếp " ( bà Hoàng Quý Phi Mai Thị Vàng ) cho nên các thái giám bị … thất nghiệp . Đến năm 1914,việc tuyển chọn thái giám thực sự chấm dứt , chỉ còn lại 9 vị được lưu lại trong cung để sống nốt những ngày cuối cùng của năm tháng tuổi già .
Vua Khải Định (1885-1925) thể chất ốm yếu , hầu như không muốn chuyện phòng the . Ông chỉ có duy nhất một người con là Hoàng tử Vĩnh Thuỵ , lên ngôi lấy niên hiệu là Bảo Đại .( Việc Hoàng tử Vĩnh Thuỵ có thực sự là con ruột cuả vua Khải Định hay không hiện vẩn là nghi vấn,tuy nhiên việc này không thuộc phạm vi bài viết này nên xin miễn bàn ,chú thích của AB ) . Vị hoàng đế cuối cùng này của triều Nguyễn nổi tiếng đào hoa . Nhưng năm 1934,dưới sự sắp xếp của Khâm sứ Trung Kỳ Charles -người đỡ đầu của Bảo Đại trong thời gian học tập ở Pháp – ông đã cưới cô Nguyễn Hữu Thị Lan , vốn là con gái một gia đình công giáo toàn tòng nên chuyện đa thê –trên hình thức- Bảo Đại đành chịu bị …cấm tiệt .Do đó dưới triều hai ông vua này,việc khôi phục lại đội ngũ thái giám đã trở nên không cần thiết ,cũng không còn ai bàn cãi tới . Vĩnh viễn , một lớp người từng tồn tại cả ngàn năm trong lịch sử phong kiến Việt Nam đã thật sự biến mất .


   PHẾ TÍCH VÀ HỒI ỨC

Trải qua dâu bể , cửu đỉnh vẩn đứng sừng sững trong Thế Miếu . Rải rác trong các sân rồng xưa vẩn còn đôi chiếc vạc đồng nặng ngàn cân đứng uy nghi với thời gian . Những dấu chứng quyền lực của một vương triều vẩn còn đứng đó nhưng không ngăn được thiên tai , bom đạn…những tàn phá của thời gian và lịch sử , biến lăng tẩm đền đài xưa thành phế tích , không ngăn được hoa quê , cỏ dại từ những xóm nghèo của bách tính lê dân suồng sả mọc lên chiếm chổ những lầu rồng bệ ngọc của một vương triều . Tam cung , lục viện không còn , Cung Giám Viện , nơi ở của các thái giám xưa chỉ còn lại một nền gạch đổ nát . Cái còn lại chỉ là đôi chút hoài niệm ngậm ngùi về một lớp người mang thân phận của " những chiếc bóng ".


Hình ảnh của các thái giám còn lưu lại đến tận ngày nay là một vài tấm ảnh trên những tấm bưu thiếp do Collection Dieulefils , Hà Nội ấn hành năm 1908 . Phía mặt sau của một tấm bưu thiếp có ảnh của 5 vị thái giám đứng ngồi bên thềm Đại Nội do nhà nghiên cứu Phan Thuận An sưu tầm được ,có bút tích của một du khách Pháp thời đó , mô tả các thái giám triều Nguyễn như sau : " Người ta gọi những thái giám là những người có danh vọng trong thành .Nói đúng hơn,họ là những người tai to mặt lớn .Đó là những người đặc biệt trong dân chúng An Nam .Cũng như các đồng hương của họ,những người thái giám đội khăn đóng chứ không che mặt như kiểu các tín đồ công giáo ở bên Pháp của ta.Ngược lại,họ để lộ mặt mũi,hình dung rất rõ ràng.-Huế 20/03/1908 ".
Ngoài ra những người hoài cổ còn có thể tìm thêm được một di tích hiếm hoi khác về các thái giám . Đó là chùa Từ Hiếu ở núi Dương Xuân ,TP Huế ,cách Tử Cấm thành 5 km về phía tây nam . Năm 1843, Hoà Thượng Nhất Định đã lên đồi Dương Xuân dựng " Thảo Am an dưỡng " đễ tịnh tu và chăm sóc Mẹ già . Năm năm sau ,1848 , Thảo Am an dưỡng được mở rộng và xây dựng quy mô , nhờ vào sự ủng hộ lớn của một thái giám tên Châu Phước Năng. Với sự vận động của vị thái giám này, Dục Tông Anh Hoàng đế (Tự Đức ), bà Hoàng Thái hậu Từ Dũ và nhiều đại thần trong triều đã góp tiền của đễ xây dựng cơ ngơi và dự khánh thành chùa . Chính vua Tự Đức đã ban cho chùa tên hiêu Từ Hiếu với ý nghĩa Từ là đức lớn của Phật, Hiếu là hạnh đầu của Phật . Về sau,một số thái giám khác luờng trước được số phận cô đơn hiu hắt của họ lúc xế chiếu đã nhiều lần quyên tiền tu bổ , kiến thiết laị chùa đễ có chổ náu thân lúc tuổi già . Đến năm 1893 , đời vua Thành Thái thứ 5 , chùa Từ Hiếu được Hoà thượng Cương Kỷ trùng tu lớn , nhiều thái giám lại tiếp tục quyên tiền đóng góp và gởi gắm ý nguyện được chôn cất tại đây .Và họ đã được thoả nguyện . Sống hết mình thờ phượng đấng Quân vương , thác yên lặng nương mình bên cửa Phật , họ đã khiến người đời gọi chùa Từ Hiếu là chùa Thái Giám , nơi duy nhất và cuối cùng lưu giữ dấu tích còn lại của một lớp người .
Ngày nay,bên phải chùa Từ Hiếu vẩn còn một khu nghĩa trang các thái giám . Sau 4 bức tường rêu phủ nằm lẩn khuất giữa rừng đầy cỏ hoang , hoa dại là 23 mộ phần của các thái giám , trong đó có mộ đã được bốc , vài ba mộ không để bia , số còn lại là những mộ phần được xây cất tử tế , bia mộ chỉ đơn giản ghi mỗi cái tên người đã khuất mà không ghi gì thêm , dù chỉ một dòng năm sinh, năm mất hay quê hương bản quán . Sống lặng lẽ , họ ra đi cũng lặng lẽ . Những tâm sự , buồn vui , phiền muộn của một kiếp người đều theo họ vùi sâu vào đáy mộ . Chỉ có tấm bia đá dựng trước cổng nghĩa trang phủ đầy rêu là vẩn còn đọc được giúp nhân gian biết được về họ chung trong một nỗi niềm . Bia đề :" Trong đời sống , chúng tôi tìm thấy ở đây sự yên bình . Khi ốm đau , chúng tôi lui về đây và sau khi chết , chúng tôi sẽ được chôn chung ở đây . Dù sống hay chết , chúng tôi vẩn tìm thấy được ở đây sự yên bình ".


Nguyễn Hồng Lam



No comments:

Post a Comment