Saturday, February 16, 2013

Xuân nhật yết Chiêu Lăng Trần Nhân Tông



春 日 謁 昭 陵 - 陳 仁 宗

貔 虎 千 門 肅,
衣 冠 七 品 通。
白 頭 軍 士 在,
往 往 說 元 豐。

Xuân nhật yết Chiêu Lăng - Trần Nhân Tông

Tì hổ thiên môn túc,
Y quan thất phẩm thông.
Bạch đầu quân sĩ lại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.

(Quân thị vệ như hổ, trước nghìn cửa đứng nghiêm túc,
Áo mũ các quan đủ cả bảy phẩm.
Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay,
Thường kể lại chuyện đời Nguyên Phong.)

NGÀY XUÂN GHÉ THĂM CHIÊU LĂNG

Nghìn cửa thị vệ đứng nghiêm trông,
Bảy phẩm cân đai rợp sân rồng .
Người lính bạc đầu còn nhắc mãi,
Chuyện cũ oai hùng thủa Nguyên Phong .


Badmonk - Tâm Nhiên

Chiêu Lăng: Lăng Thái Thượng hoàng Trần Thái Tông
Chuyện Nguyên Phong: Chuyện đời Trần Thái Tông khởi nghiệp gian nan vất vả.

Wednesday, February 13, 2013

XUÂN CẢNH Trần Nhân Tông



春 景 - 陳 仁 宗

楊 柳 花 深 鳥 語 遲
畫 堂 檐 影 暮 雲 飛
客 來 不 問 人 間 事
共 倚 欄 杆 看 翠 微

XUÂN CẢNH - Trần Nhân Tông

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiền mẫn mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy vi

CẢNH XUÂN

Trong hàng dương liễu chim hót ca
Chiều tà mây dải bóng lầu hoa
Khách đến việc đời xin gác bỏ
Tựa cửa mơ màng ngắm núi xa

Badmonk - Tâm Nhiên
.



Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót
Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm khắc, mây chiều bay.
Khách đến chơi không hỏi việc đời,
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời.

Trần Nhân Tông (1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ngày 22 tháng Mười âm lịch năm Mậu Dần (tức 8 tháng 11 năm 1278), ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).

Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan. Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp.

Nhà vua từng nói: ‎" Các người chớ quên , chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ , trái đạo . Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo . Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu . Chớ coi thường chuyện vụn vặt nảy ra trên biên ải . Các việc trên , khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn . Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước . Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp . Không thôn tính được ta , thì gậm nhấm ta . Họ gậm nhấm đất đai của ta , lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích . Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn : " Một tấc đất của Tiền nhân để lại , cũng không được để lọt vào tay kẻ khác " . Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu "

Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này. Ông qua đời ngày 3 tháng Một âm lịch năm Mậu Thân (tức 16 tháng 12 năm 1308), được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.

Tác phẩm của Trần Nhân Tông có:Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền)Tăng già toái sự (Chuyện vụn vặt của sư tăng)Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà đá) Đại hương hải ấn thi tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm)Trần Nhân Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông)Trung Hưng thực lục (2 quyển): chép việc bình quân Nguyên xâm lược. Các phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại 25 bài thơ chép trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục - Theo Wikipedia

Sunday, February 10, 2013

Sơn cư mạn hứng Nguyễn Du



山 居 漫 興 - 阮 攸

南 去 長 安 千 里 餘,
群 峰 深 處 野 人 居。
柴 門 晝 靜 山 雲 閉,
藥 圃 春 寒 隴 竹 疏。
一 片 鄉 心 蟾 影 下,
經 年 別 淚 雁 聲 初。
故 鄉 弟 妹 音 耗 絕,
不 見 平 安 一 紙 書。

Sơn cư mạn hứng - Nguyễn Du(1802 - 1887)

Nam khứ Trường An thiên lý dư,
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.
Sài môn trú tĩnh sơn vân bế,
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất kiến bình an nhất chỉ thư.

Ở NÚI CẢM HỨNG


Về nam ngàn dặm cách Trường An,
Nhà cỏ u cư giữa non ngàn.
Mây khóa cổng thiền yên bóng núi,
Viện thuốc tre thưa độ xuân tàn.
Sáng trăng chạnh nhớ thương làng cũ,
Tiếng nhạn khơi dòng lệ chứa chan .
Quê nhà tin tức anh em vắng,
Không biết mọi người được bình an.

Badmonk - Tâm Nhiên



Cách Trường An nghìn dặm về phía nam,
Có một người quê mùa ở trong núi sâu.
Ban ngày yên tĩnh, mây núi che kín cổng tre.
Mùa xuân lạnh, hành trúc quanh vườn thuốc trông thưa thớt.
Thơ thẩn dưới bóng trăng, lòng nhớ quê hương
Tiếng nhạn đầu mùa khơi thêm dòng lệ biệt ly từ bao năm.
Em trai em gái ở nơi quê nhà, bấy lâu bặt hắn tin tức,
Không nhận được lá thư nào nói cho biết có bình yên hay không?

Thursday, February 7, 2013

Cửu biệt ly Lý Bạch




久別 離 - 李白

別 來 幾 春 未 還 家,
玉 窗 五 見 櫻 桃 花。
況 有 錦 字 書,
開 緘 使 人 嗟。
至 此 腸 斷 彼 心 絕。
雲 鬟 綠 鬢 罷 梳 結,
愁 如 回 飆 亂 白 雪。
去 年 寄 書 報 陽 台,
今 年 寄 書 重 相 催。
東 風 兮 東 風,
為 我 吹 行 雲 使 西 來。
待 來 竟 不 來,
落 花 寂 寂 委 青 苔。

Cửu biệt ly - Lý Bạch

Biệt ly kỷ xuân vị hoàn gia,
Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa.
Huống hữu cẩm tự thư,
Khai giam sử nhân ta.
Chí thử trường đoạn bỉ tâm tuyệt.
Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết,
Sầu như hồi phiêu loạn bạch tuyết.
Khứ niên ký thư báo Dương Đài,
Kim niên ký thư trùng tương thôi.
Đông phong hề đông phong,
Vị ngã xuy hành vân sử tây lai.
Đãi lai cánh bất lai!
Lạc hoa tịch tịch uỷ thương đài.

SẦU LY BIỆT

Biệt ly từ độ mấy xuân,
Bâng khuâng hoa rụng năm lần bên song.
Mở tờ thư gấm nao lòng,
Đọc lên lệ úa đôi dòng sầu rơi .
Tóc mây biếng chải rối bời,
Buồn trông gió thổi cuối trời tuyết bay.
Dương Đài cách trở tầm tay,
Thư đi rồi lại đêm ngày ngóng trông.
Gió đông ơi hỡi gió đông,
Cho ta làm áng mây hồng về tây.
Đợi người nào thấy ai đây ?
Hoa rơi lặng lẽ phủ đầy thềm rêu...

Badmonk - Tâm Nhiên


Từ ngày chàng ra đi đã mấy xuân không về,
Trước cửa ngọc đã năm lần thấy hoa anh đào nở.
Huống lại có thư chữ gấm,
Mở ra khiến lòng thêm đau xót.
Tóc mây quên bện, tóc mai biếng thắt tết,
Buồn như cơn gió thổi tung tuyết trắng.
Năm trước đã gữi thư nhắn chốn Dương Đài,
Năm nay lại gữi thư giục giã,
Gió đông chừ gió đông
Hãy vì ta thổi mây bay về tây,
Đợi hoài mà vẫn chưa thấy người về,
Hoa rơi lặng lẽ phủ rêu xanh...


Wednesday, January 30, 2013

Xuân nhật độc chước Lý Bạch



春 日 獨 酌 二 首 之 一 李白

東 風 扇 淑 氣,水 木 榮 春 暉。
白 日 照 綠 草,落 花 散 且 飛。
孤 雲 還 空 山,眾 鳥 各 已 歸。
彼 物 皆 有 託,吾 生 獨 無 依。
對 此 石 上 月,長 醉 歌 芳 菲。

Xuân nhật độc chước - Lý Bạch

Đông phong phiến thục khí,
Thủy mộc vinh xuân huy.
Bạch nhật chiếu lục thảo,
Lạc hoa tán thả phi.
Cô vân hoàn không sơn,
Chúng điểu các dĩ qui.
Bỉ vật giai hữu thác,
Ngô sinh độc vô y.
Đối thử thạch thượng nguyệt,
Trường túy ca phương phi.

NGÀY XUÂN UỐNG RƯỢU MỘT MÌNH

Gió đông thổi nhẹ mây dời,
Cỏ cây xanh lẫn chân trời tuyết pha.
Nắng xuân rải trắng ngõ nhà,
Là đà cánh gió vàng hoa rụng đầy.
Núi rừng khoác áo ngàn mây,
Chim trời tung cánh gọi bầy nơi nơi.
Muôn loài hạnh ngộ tinh khôi,
Sao đời ta phải đơn côi một mình.
Trăng lên vách đá in hình,
Hát vang cạn chén tử sinh cuộc đời....

Badmonk - Tâm Nhiên

Saturday, January 26, 2013

Sơn trung vấn đáp Lý Bạch




山 中 問 答 - 李 白

問 余 何 意 棲 碧 山
笑 而 不 答 心 自 閑
桃 花 流 水 杳 然 去
別 有 天 地 非 人 間

Sơn trung vấn đáp - Lý Bạch

Vấn dư hà ý thê bích sơn
Tiếu nhi bất đáp tâm tự nhàn
Đào hoa lưu thủy yểu nhiên khứ
Biệt hữu thiên địa phi nhân gian.

Đáp Lời Người Hỏi Ở Trên Núi

Hỏi ta sao ở núi xanh ?
Mĩm cười không nói, lòng thanh thản nhàn.
Đào rơi nước cuốn nhẹ nhàng,
Rằng đây khác chốn nhân gian bão bùng...

Badmonk - Tâm Nhiên


Hỏi ta việc gì lại vào ở trong núi xanh,
Cười không trả lời, lòng cảm thấy thư nhàn.
Hoa đào theo giòng nước trôi đi xa thẳm,
Riêng chỉ thấy cảnh đất trời khác hẳn ở chốn nhân gian thị phi

Bí mật lăng mộ Thành Cát Tư Hãn

Tháng 9/2001, đoàn khảo cổ Mỹ và Mông Cổ phát hiện ở gần vùng núi Binder cách Ulanbator, thủ đô Mông Cổ, 360km một quần thể 40 ngôi mộ, 3 phía được bao bọc bởi bức tường đá cao 3– 4 m, tổng chiều dài gần 3 km.
Giữa khu này có một khối đá đỏ hay và được xem như là lâu đài của Thành Cát Tư Hãn.
Ở phía nam quần thể này, bằng những thiết bị chuyên dụng đã phát hiện hài cốt của hơn 60 người. Theo những binh giáp và vũ khí tìm thấy, những người này thuộc tầng lớp quý tộc Mông Cổ.
Các nhà khảo cổ cho rằng trong số đó có Thành Cát Tư Hãn. Cách địa điểm này 56 km, có một ngôi mộ tập thể chôn khoảng 100 binh sĩ Mông Cổ.
Các nhà khoa học Mỹ cho rằng, theo truyền thuyết, đó chính là những binh sĩ sau khi chôn cất vị thống soái đã bị giết để khỏi lộ vị trí ngôi mộ của ông. Đoàn thám hiểm cuối cùng cũng không chứng minh được trong quần thể này có hài cốt của Thành Cát Tư Hãn hay không.
Sau đó không lâu, một nhân viên bảo tàng ở Mãn Châu tuyên bố đã tìm thấy mộ của Thành Cát Tư Hãn. Theo phía Trung Quốc, mộ của ông nằm ở phía bắc thuộc khu tự trị Nội Mông, gần biên giới với Mông Cổ, dưới chân dãy núi Altai. Nhưng rồi tin này cũng bị chìm vào lãng quên.
Năm 2004 đoàn thám hiểm Mông Cổ-Nhật Bản khi khai quật vùng Avraga (Mông Cổ) phát hiện nền móng tòa nhà có hình dáng bề ngoài giống cung điện của Thành Cát Tư Hãn được lưu trong sử sách. Các nhà khoa học tìm thấy một bệ thờ bằng đá và các bát hương cổ Trung Quốc có chạm hình con rồng.
Sử sách ghi lại rằng, gần mộ Thành Cát Tư Hãn có các bát hương hình dáng như vậy luôn tỏa khói nghi ngút. Ở gần cung điện còn có 4 hố sâu, đường kính 1,5 m, trong đó là xương gia súc, tàn tro vải lụa.
Theo tục lệ Mông Cổ sau khi chôn cất các khan (chức danh của giới quý tộc Mông Cổ) người ta đào hố, thiêu gia súc và đổ sữa ngựa vào đó với quan niệm rằng người quá cố sẽ có thực phẩm dùng ở thế giới bên kia.
Tất cả cho thấy đây là nơi chôn cất của một vị quý tộc rất có thế lực đáng tôn kính Mông Cổ. Nhưng đó có phải Thành Cát Tư Hãn không vẫn còn bí ẩn.
Thành Cát Tư Hãn mất năm 1227 (năm Hợi) trong cuộc hành quân chinh phục. Có nhiều giả thiết về cái chết của ông: bị trúng tên khi chiến đấu, bị bệnh nặng kéo dài, bị ngã ngựa, bị sét đánh, thậm chí là bị người đẹp giết trong đêm vui vẻ.
Để cho vị hoàng đế không bị người đời sau quấy rối, người ta đã chôn ông trên thảo nguyên rồi cho đàn ngựa hàng nghìn con quần thảo xóa mọi dấu vết.
Theo một giả thuyết khác, người ta đắp đập ngăn sông cho nước chảy ra hướng khác rồi chôn quan tài xuống đáy sông, sau đó phá đập cho nước chảy về theo hướng cũ, và dòng nước sẽ vĩnh viễn che kín ngôi mộ.

Tuy nhiên, do Đại Hạ nằm ở phía tây của hai nước Tống và Liêu, vì vậy, trong sử sách Trung Quốc người ta gọi Đại Hạ là Tây Hạ.

Vương triều Tây Hạ là vương triều của bộ tộc Đảng Hạng, được thành lập vào đầu thế kỷ thứ 11 sau Công nguyên. Tổ tiên của triều Tây Hạ được cho là Lý Kế Thiên. Thực tế thì tổ tiên xa xưa của họ Lý vốn là mang Thác Bạt.

Cho tới đầu thời Đường, một người Đảng Hạng là Thác Bạt Xích Từ đã theo nhà Đường, được phong là Bình Tây Công và cho đến ở vùng Khánh Châu (nay thuộc Khu tự trị Hồi Ninh Hạ).

Cuối thời Đường, con cháu người này là Thác Bạt Tư Cung tham gia dẹp loạn Hoàng Sào có công, nên được phong làm Hạ Quốc Công, một chức vụ kế tập và rất có thế lực đồng thời được ban quốc tính là họ Lý, theo họ các vua nhà Đường. Lý Kế Thiên chính là con cháu của Thác Bạt Xích Từ.

Đến thời hậu duệ của Lý Kế Thiên là Lý Đức Minh, do thế lực của người Đảng Hạng chưa mạnh nên Lý Đức Minh phải dựa vào nước Liêu và Bắc Tống.

Nước Liêu còn phong cho Lý Đức Minh là Tây Bình vương. Thời Tống Thái Tông cũng ban cho Lý Đức Minh họ Triệu, tên là Bảo Cát.

Đến thời Tống Chân Tông thì Lý Đức Minh được phong làm Định Nan Quân Tiết Độ Sứ, cai quản 5 châu ở vùng Ninh Hạ.

Nhờ sự lãnh đạo của mấy đời Tây Bình Vương của gia tộc Thác Bạt, thế lực của người Đảng Hạng bắt đầu lớn mạnh dần. Lúc bấy giờ, gia tộc Thác Bạt chưa tuyên bố lập quốc gia riêng, tuy nhiên đã thực hiện các quyền lực và nghi thức giống như hoàng đế.


Khu lăng mộ Tây Hạ
Khu lăng mộ Tây Hạ

Khi cháu đời thứ ba của Lý Kế Thiên là Triệu Nguyên Hạo kế thừa tước vị của cha ông, liền bỏ những họ mà nhà Đường và nhà Tống đã ban cho họ. Tới năm 1038, Lý Nguyên Hạo xưng đế, đặt tên nước là Đại Hạ.

Khi Nguyên Hạo nắm quyền đã học theo các chế độ của các vương triều Trung Nguyên đồng thời kết hợp với các đặc sắc của dân tộc mình để hoàn thiện cấu thống trị phong kiến của Tây Hạ.

Nhờ vậy, chẳng bao lâu sau, từ kinh tế, quân sư cho tới chính trị, Tây Hạ đã có thể sánh ngang với các nước Tống, Liêu.

Vương triều Tây Hạ do Nguyên Hạo xây dựng tồn tại chưa đầy hai trăm năm. Tuy nhiên nó đã tạo nên một nền văn minh huy hoàng và xán lạn.

Trước khi tuyên bố thành lập vương triều Tây Hạ, Nguyên Hạo đã sai đại thần là Dã Lợi, Nhân Vinh sáng tạo ra loại văn tự để ghi lại ngôn ngữ của người Đảng Hạ. Đó chính là Phồn văn mà sau này người ta gọi là “chữ Tây Hạ”.

Loại văn tự này mặc dù mượn các nguyên lý cấu tạo cũng như nét bút của chữ Hán, tuy nhiên, lại mang rất nhiều đặc điểm riêng.

Phồn văn có một tác quan trọng đối với sự kiến lập vương triều, sự phát triển văn hóa, truyền bá Phật giáo, phồn thịnh của văn học cũng như ngành in ấn của Tây Hạ.

Tuy nhiên, tới giữa thế kỷ thứ 13, Tây Hạ không còn đủ sức để chống lại sức tấn công như lũ cuốn của đế quốc Mông Cổ. Sau khi hạ được Hưng Khánh phủ, đô thành của Tây Hạ, quân đội Mông Cổ đã xông vào thành, cướp bóc.

Gót ngựa của kỵ binh Mông Cổ đi tới đâu, xương trắng của người Tây Hạ phơi tới đó. Trải qua 189 năm tồn tại, cuối cùng vương triều Tây Hạ uy trấn một phương cũng bị tiêu vong, bộ tộc Đảng Hạ từ đó cũng không còn tồn tại.

Trong những sử sách sau đó, người ta không thấy những ghi chép chính thống về Tây Hạ. Tất cả chỉ là những câu chuyện vụn vặt mang đậm tính truyền kỳ.

Những khai quật khảo cổ cũng không thu được kết quả như mong đợi giúp những người hiện đại có thể hiểu rõ về sự tồn tại của vương triều này.

2. Sự tái xuất của vương triều Tây Hạ chính là vào năm 1972 tại một công trường quân sự của quân Lan Châu.

Lúc bấy giờ, quân Lan Châu đang tiến hành xây dựng một sân bay quân sự loại nhỏ ở dưới núi Hạ Lan cách trung tâm Ngân Xuyên khoảng 40km thì phát hiện ra một số đồ gốm rất cổ.

Các nhà khảo cổ tiến hành xem xét và phán đoán rằng, nơi đây chính là lăng mộ của người Tây Hạ thời trước. Và phán đoán của họ không sai.

Chẳng bao lâu sau, những ngôi mộ có niên đại ngót 700 bị chôn vùi dưới lòng đất đã một lần nữa xuất hiện trước mắt người đời. Tuy nhiên, sự xuất hiện ấy không những không khiến những câu hỏi về nền văn minh Tây Hạ được giải đáp mà ngược lại khiến nó càng trở nên thần bí và rắc rối hơn.
Khu lăng mộ Tây Hạ
Khu lăng mộ bị chôn vùi hơn 700 năm của triều Tây Hạ

Trong lịch sử Trung Quốc, Tây Hạ là vương triều duy nhất không có chính sử. Thành Cát Tư Hãn và con cháu mình không chỉ hủy diệt người Đảng Hạ mà còn hủy diệt luôn cả nền văn hóa của người Tây Hạ. Những cuốn sử thời nhà Nguyên chỉ có “Tây Hạ truyện” chứ không hề có phần lịch sử riêng.

Cũng vì vậy, những bí ẩn mà nền văn Tây Hạ để lại cho người đời vô cùng nhiều. Muốn giải mã được những bí ẩn này, giờ đây cách duy nhất chính là giải cho được những mật mã của lăng mộ của vương triều Tây Hạ còn lưu lại.

Theo sử sách ghi chép, vương lăng của Tây hạ được xây dựng vào khoảng từ thế kỷ thứ 11 tới thế kỷ thứ 13, tại chân núi phía đông của ngọn Hạ Lan, nằm cách trung tâm thành phố Ngân Xuyên của Ninh Hạ khoảng 40km.

Năm 1227, kỵ binh Mông Cổ tấn công Tây Hạ, Tây Hạ bị diệt vong, các lăng mộ này cũng bị phá hủy nghiêm trọng. Sau đó, cùng với sự diệt vong của vương triều Tây Hạ, các lăng mộ này cũng bị chôn vùi trong cát cho tới tận những năm 1972 khi người ta tình cờ phát hiện.

Khu lăng mộ hoàng đế Tây Hạ từ nam hướng theo bắc có thể phân thành 4 khu vực. Từ lăng số 1 tới lăng số 6 có thể chia làm 3 khu, mỗi khu 2 lăng. Từ lăng số 7 tới lăng số 9 thuộc khu số 4.

Theo bước chân của các nhà khảo cổ, những bí ẩn mà lăng mộ này ngày càng nhiều hơn. Điều mà mọi người nghĩ tới trước nhất chính là, chủ nhân của những lăng mộ này là ai.

Trong số 12 đế vương của Tây hạ, những người có lăng hiệu gồm Dụ Lăng của Thái Tổ Lý Kế Thiên, Gia Lăng của Thái Tông Triệu Đức Minh, Thái Lăng của Cảnh Tông Nguyên Hạo, An Lăng của Nghi Tông Lượng Tộ, Hiến Lăng của Huệ Tông Kiêm Thương, Hiển Lăng của Sùng Tông Càn Thuận, Thọ Lăng của Nhân Tông Nhân Hiếu, Trang Lăng của Hằng Tông Thuần Hựu, Khang Lăng của Nhượng Tông An Toàn, tổng cộng có 9 người.

Tuy nhiên, vị trí lăng mộ cụ thể của họ không được nói rõ, vẫn phải chờ khảo chứng.

Ngoài ra, điều khiến nhiều người thắc mắc chính là, trong khu vực lăng mộ này, hoàn toàn không có lấy một tấm bia mộ nào hoàn chỉnh, khắp mọi nơi chỉ là những tấm bia đã vỡ vụn.

Ngoài trừ những mảnh vỡ bia mộ của Nhân Hiếu Lăng được ghép lại thành phần đầu của tấm bia tương đối hoàn chỉnh, còn lại đều là những mảnh vụn không thể nào khôi phục lại được.

Sự tàn phá của quân đội Mông Cổ không chỉ khiến Tây Hạ diệt vong mà ngay cả tới bia mộ cũng không tìm được cái nào còn hoàn chỉnh.

Tuy nhiên, vì sao người Mông Cổ lại làm như vậy? Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đế chế Mông Cổ đã nhiều lần dẫn quân tấn công Tây Hạ nhưng không thành.

Vì vậy, Thành Cát Tư Hãn luôn muốn Tây Hạ sẽ bị giày xéo dưới gót giày của kỵ binh Mông Cổ. Trong lần tấn công cuối cùng, bệnh cũ của Thành Cát Tư Hãn tái phát, ít lâu sau thì bệnh ngày một nặng thêm và vị Đại hãn của Mông Cổ đột ngột qua đời.

Có lẽ Thành Cát Tư Hãn cho rằng, người Tây Hạ phải chịu trách nhiệm về cái chết của ông nên trước khi nhắm mắt xuôi tay, Thành Cát Tư Hãn đã dặn dò con cháu mình rằng, nhất định phải cho Tây Hạ biến mất khỏi trái đất, không chừa lại một thứ gì.

Chính vì thế, khi quân Mông Cổ công hạ được đã không thương tiếc giết chóc, cướp bóc và tàn phá Tây Hạ. Đô thành Tây Hạ được xây dựng hơn 200 năm cuối cùng bị thiêu hủy bởi ngọn lửa của người Mông Cổ sau khi đã họ đã cướp và giết không còn thứ gì.

Chủ nhân của lăng mộ là ai? Lăng mộ đã từng bị cướp hay chưa? Những lăng mộ này còn ẩn chứa những bí mật gì nữa? Những thứ được tìm thấy trong lăng mộ có vai trò thế nào trong vương triều của người Tây Hạ?...

Những câu hỏi về khu lăng mộ bí ẩn của vương triều Tây Hạ có lẽ phải còn rất lâu nữa mới có được câu trả lời.

Theo Vokrug sveta

Monday, January 21, 2013

Xuân dạ biệt hữu nhân - Trần Tử Ngang



春 夜 別 友 人 - 陳 子 昂

銀 燭 吐 青 煙,
金 樽 對 綺 筵。
離 堂 思 琴 瑟,
別 路 繞 山 川。
明 月 隱 高 樹,
長 河 沒 曉 天。
悠 悠 洛 陽 道,
此 會 在 何 年?

Xuân dạ biệt hữu nhân - Trần Tử Ngang

Ngân chúc thổ thanh yên,
Kim tôn đối ỷ diên.
Ly đường tư cầm sắt,
Biệt lộ nhiễu sơn xuyên.
Minh nguyệt ẩn cao thụ,
Trường hà một hiểu thiên.
Du du Lạc Dương đạo,
Thử hội tại hà niên?

Đêm Xuân Tiễn Bạn

Nến tàn nhàn nhạt khói xanh bay,
Vàng nghiêng đáy cốc rựu thơm đầy.
Đàn lên cung gởi lời tâm sự,
Sông núi chập chùng buổi chia tay.
Trăng xuống tàn cây tựa mái đầu,
Bình minh sao rụng sáng lên mau.
Lạc Dương tương biệt đường muôn dặm,
Hẹn đến xuân nào ta gặp nhau?

Badmonk - Tâm Nhiên


Ngọn nến bạc nhả khói xanh
Chén vàng rựu tràn ly long lanh buổi tiệc
Nơi ngôi nhà lúc chia tay lưu tình
Núi sông ghềnh quanh co làm thêm khó tiễn biệt
Cây cao che bóng trăng xuống
Dòng sông ngân lặn lúc bình minh lên
Lạc Dương đường xa xôi nghìn dặm
Năm nào chúng mình lại được gặp lại nhau?

Wednesday, September 19, 2012

Thập nhất nguyệt quá bạc Vịnh Sơn hiểu trú - Trần Minh Tông




十 一 月 過 泊 詠 山 曉 住 - 陳 明 宗

月 落 小 窗 船,
巖 花 冷 不 眠。
曙 分 山 失 影,
陽 伏 水 生煙。
往 事 須 臾 際,
成 人 三 十 年。
不 言 恍 若 醒,
坐 對 一 爐 前。

Thập nhất nguyệt quá bạc Vịnh Sơn hiểu trú - Trần Minh Tông

Nguyệt lạc tiểu song thuyền,
Nham hoa lãnh bất miên.
Thự phân sơn thất ảnh,
Dương phục thuỷ sinh yên.
Vãng sự tu du tế,
Thành nhân tam thập niên.
Bất ngôn hoảng nhược tỉnh,
Toạ đối nhất lô tiền.

Tháng mười một qua hồ Vịnh Sơn đổ thuyền lúc bình minh

Trăng lặn sau khung cửa thuyền trôi,
Hoa đá rét căm thức sáng trời .
Bóng núi sáng lên hòa sắc núi,
Mặt trời chưa ló nước bốc hơi .
Chuyện củ hợp tan theo gió sớm,
Thành bại được người ba mươi năm .
Bâng khuâng mộng mị lòng không nói,
Trầm lặng nhìn than lửa bập bùng .

Badmonk - Tâm Nhiên



Trăng lặn ngoài cửa sổ nhỏ trên thuyền,
Hoa núi lạnh chẳng ngủ được.
Tảng sáng, bóng núi mờ hẳn đi,
Khi mặt trời chưa ló mặt nước như bốc khói.
Việc đã qua chỉ như trong chốc lát,
Thành được người thì đã ba mươi năm.
Bâng khuâng như tỉnh lại, chẳng nói năng gì,
Ngồi lặng trước bếp lò .



Trần Minh Tông(1300-1357), tên huý là Trần Mạnh, là con thứ tư vua Trần Anh Tông, cháu ngoại của Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng, sinh ngày 21 tháng Tám năm Canh Tý (4-9-1300), mất ngày 19 tháng Hai năm Đinh Dậu (10-3-1357).

Thuở nhỏ, vua cha sợ ông khó nuôi như các hoàng tử khác nên Trần Nhật Duật đã nhận ông về nuôi nấng, dạy dỗ như con. Năm 15 tuổi, vua cha lên làm thượng hoàng, Trần Minh Tông được kế vị, trở thành vị hoàng đế thứ năm của triều Trần.

Trong 15 năm làm vua (1314-1329) và 28 năm làm thượng hoàng (1329-1357), Trần Minh Tông đã ban hành nhiều chính sách nhằm củng cố thêm cơ nghiệp nhà Trần. Ông tỏ ra cứng rắn hơn trong việc dùng sức mạnh để quét sạch các lực lượng quấy rối biên giới phía Tây và phía Nam, bảo đảm một bờ cõi yên ổn và vững mạnh. Trong quan hệ với nhà Nguyên, ông vẫn giữ thái độ mềm dẻo nhưng không nhân nhượng, chủ động chống mọi âm mưu lấn đất, nhòm ngó của họ. Về nội trị, Minh Tông chú ý đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, kêu gọi vương hầu trả lại ruộng đất lấn chiếm, giải quyết thoả đáng các vụ tranh chấp ruộng đất. Nho học được đề cao hơn, Phật học giảm dần uy thế. Minh Tông không xuất gia như các tiên đế, ông dặn dò các hoàng hậu cũng đừng đi tu. Dưới triều đại ông, truyền thống cởi mở, thân ái giữa vua tôi vẫn được duy trì. Hai thế hệ sĩ phu - lão thành và trẻ tuổi - đều được thi thố tài năng như nhau, nên sử sách đời sau bình luận rằng thời này "nhân tài đầy dẫy". Tuy nhiên, về cuối triều Minh Tông, mâu thuẫn trong triều dần dần trở nên gay gắt, hình thành những phe phái đối lập, có lúc phát thành những vụ thanh toán tàn khốc đẫm máu. Nhà vua cũng không đủ sáng suốt nên chính ông cũng bị lôi kéo vào những vụ đó, để sau này ông đã phải hối hận.

Về thơ văn, mặc dù khi lâm chung, Minh Tông có sai đốt hết đi, nhưng ngày nay vẫn còn giữ lại được một số. Có thể nói, dưới những sắc thái khác nhau, thơ ông đã phản ánh trung thực tư tưởng, tình cảm và tính cách vủa ông. Qua thơ, Minh Tông tỏ ra là một vị vua có tinh thần chủ động, năng nổ với việc nước, ưu ái đối với các bề tôi giỏi, thương yêu dân chúng trong bờ cõi và cả dân chúng các nước láng giềng. Thơ Minh Tông hùnh hồn, phóng khoáng, nhưng cũng bình dị, tự nhiên, tinh tế. Nhà thơ không ngần ngại bộc bạch những tâm sự sâu kín, những lỗi lầm thời trẻ mà sau này ông mới nhận thức được.

Tác phẩm có "Minh Tông thi tập", 1 quyển, nay đã mất. Hiện chỉ còn 25 bài thơ chép rải rác trong "Toàn Việt thi lục", "Trần triều thế phả hành trạng", "Việt âm thi tập", "Đại Việt sử ký toàn thư" và "Nam Ông mộng lục". Ngoài ra còn một bài tựa cho tập "Đại hương hải ấn thi" của Trần Nhân Tông
- Theo VH.Org