Saturday, September 25, 2010

Tự khiển - La Ẩn

自遣  羅隱



得即高歌失即休,
多愁多恨亦悠悠。
今朝有酒今朝醉,
明日愁來明日愁。

Tự khiển - La Ẩn
Đắc tức cao ca thất tức hưu,
Đa sầu đa hận diệc du du.
Kim triêu hữu tửu kim triêu tuý,
Minh nhật sầu lai minh nhật sầu.


Tự biếm trích mình
Thắng thời cao giọng , thua im hơi ,
Nhiều buồn , lắm giận giết thảnh thơi.
Sáng đã rượu vào , ngày không tỉnh ,
Mai lại buồn , buồn mãi khôn thôi .


Tuệ Nghĩa-Nguyễn Thanh Sơn

Friday, September 24, 2010

Liễu Phàm Tứ Huấn - Phương pháp cải tạo vận mệnh

Liễu Phàm Tứ Huấn - Phương pháp cải tạo vận mệnh


Liễu Phàm Tứ Huấn  - Hoà Thượng Thích Thiện Siêu dịch
Truyện tự thuật của ông Liễu Phàm (Người tỉnh Giang Tô, đời Minh, đậu tiến sĩ)
( Một câu chuyện rất lý thú giúp cải tạo vận mệnh)


1. Cái học lập mạng
Tôi bị mồ côi cha từ nhỏ. Mẹ tôi cho theo nghề Y học và nói với tôi rằng: Học nghề làm thuốc vừa có thể nuôi sống vừa có thể giúp người. Vả lại luyện tập một nghề cho tinh vi có tăm tiếng, chính là sở nguyện của cha mầy khi trước.
Sau đó, có một hôm tôi đến lễ chùa Từ Vân, nhân gặp một cụ già râu dài tướng đẹp, dáng mạo phơi phới như tiên, tôi đem lòng kính mộ. Cụ nói với tôi: "Ta coi cậu là người trong chốn quan trường, sang năm đã đến khoa thi tấn học, sao cậu không chịu đọc sách?". Tôi trình bày lý do và hỏi thăm tên họ quê quán của Cụ.
Cụ bảo: Ta họ Khổng, người đất Vân Nam. Ta được chánh truyền phép lý số trong sách Hoàng Cực của Thiệu Ưng tiên sinh. Ta muốn truyền lại cho cậu.
Tôi liền dẫn Cụ về nhà giới thiệu với mẹ tôi, mẹ tôi dạy tiếp đãi Cụ rất hậu, và yêu cầu Cụ thử chấm số của tôi xem ra thế nào, thì quả nhiên từ những việc mảy may đều được Cụ đoán trúng rành mạch. Từ đó tôi nảy sanh ý muốn đọc sách, và đem chuyện bàn với người anh cô cậu là Trầm Sinh. Anh ấy bảo tôi: hiện nay có Úc Hải Cốc tiên sinh đang mở khóa giảng tại nhà ông Trầm Hữu Phu, để anh gởi em tới đó học, rất tiện. Sau đó tôi trở thành học trò của thầy Úc Hải Cốc.
Khổng tiên sinh chấm số tôi như vầy: Lúc nhỏ thi huyện đậu thứ 14, thi phủ đậu thứ 71, thi tỉnh đậu thứ 9. Quả nhiên năm sau tôi đi thi cả ba nơi đều có tên đậu đúng như lời đoán.
Cụ lại đoán cả việc lành dữ trong suốt đời tôi, rằng năm nào thi đậu thứ mấy, năm nào được bổ Bẩm sinh năm nào được bổ chức Cống sinh, sau đó năm nào được bổ Tri huyện tỉnh Tứ Xuyên, nhưng làm tri huyện đủ ba năm rưỡi lại nên cáo thối và thọ đến 53 tuổi, chết vào giờ sửu ngày 14 tháng tám. Chỉ đáng tiếc số người không con. Các lời đoán nầy tôi đều ghi lại và nhớ cẩn thận. Từ đó về sau, phàm mỗi lần thi cử, tên tuổi đậu đạt đứng trước đứng sau của tôi thế nào đều đúng như lời tiên sinh dự đoán, duy có điều nầy làm tôi hơi nghi là tiên sinh đoán tôi ăn lộc trong thời gian Bẩm sinh đủ số 91 thạch 5 đấu gạo thì được bổ Cống sinh, nhưng cập kỳ tôi mới tiêu hết số gạo 71 thạch, đã được Ðồ Tôn sư phê chuẩn cho tôi bổ Cống sinh, nên tôi nghi điều nầy tiên sinh đoán sai, không ngờ sau đó tôi bị quan đại lý Dương Công bác khước, phải kéo dài thời gian mãi đến năm Ðinh mão mới nhờ Minh Tôn sư thấy quyển văn thi của tôi tại khoa trường, khen rằng: Năm thiên sách nầy chính là năm thiên tấu nghị lên triều đình, người có tài văn bài thế nầy há lại để vùi lấp mãi ở chỗ song môn sao? Rồi ông trình văn bài của tôi lên quan huyện và tôi được phê chuẩn bổ Cống sinh. Kiểm điểm lại số gạo tiêu trong thời gian nầy cộng với số gạo 71 thạch khi trước thì vừa đủ số 91 thạch 5 đấu không sai; do đó tôi càng tin chắc đời người tiến thối có số mạng, mau chậm có vận thời, nên tôi cứ dửng dưng không còn để ý mong cầu một điều gì.
Sau khi bổ Cống sinh tôi phải vào yến đô học tại Quốc tử giám. Suốt một năm lưu lại kinh đô, tôi chỉ thường ngồi lẳng lặng, không buồn xem văn thư gì cả. Qua năm Kỷ tỵ đi dạo Nam Ưng. Trước khi vào Quốc tử giám, tôi có đến viếng thăm Thiền sư Vân Cốc Hội ở núi Thể Hà. Ngồi chung với Thiền sư một nhà suốt ba đêm ngày liền, mắt không hề nhắm. Thiền sư hỏi tôi: người ta ở cõi đời sở dĩ không làm được Thánh Hiền chỉ vì bị vọng niệm ràng buộc, nay ông ngồi suốt ba ngày mà không thấy khởi lên một niệm nào, là tại làm sao? Tôi trả lời: Thưa Thiền sư, tôi được Khổng tiên sinh chấm số, cho biết mọi điều vinh nhục tử sinh đều do số định, dầu có nóng lòng mơ tưởng điều gì cũng vô ích, vì vậy tôi không cần nghĩ tưởng điều gì. Thiền sư cười: Lâu nay tôi đãi ông như bậc hào kiệt, không ngờ ông chỉ là một kẻ phàm phu chay! Tôi giựt mình, hỏi Thiền sư cho biết lý do, Thiền sư dạy: những người chưa được "không tâm" mới phải bị âm dương chi phối, số mệnh buộc ràng. Nhưng số mệnh chỉ câu thúc kẻ phàm phu, không thể câu thúc được người cực thiện cũng như cực ác, ông suốt 20 năm nay chịu bó tay trước số mệnh không chuyển đổi được tí gì, như thế, há không phải phàm phu thì là gì?
Tôi hỏi: Thưa Thiền sư, vậy số mệnh có thể tránh được ư? Thiền sư dạy: Số mệnh do ta gây ra, họa phước chính ta tìm lấy. Ðó là điều sách vở đã dạy đành rành. Kinh Phổ Môn, Phật dạy: Cần giàu sang được giàu sang, cần con trai con gái, được con trai con gái, cần sống lâu được sống lâu. Ôi! Vọng ngữ là một giới cấm nặng của nhà Phật, há lẽ chư Phật Bồ-tát lại khi cuồng người đời mà nói ra câu ấy hay sao!
Tôi hỏi tiếp: Thầy Mạnh Tử nói: Hễ cầu thời được, ấy là nói cầu những điều chính nơi tâm mình có thể làm được kia, như điều đạo đức nhân nghĩa thời có thể ra sức mong cầu, còn như công danh phú quí là đều ngoài năng lực mình, làm sao mong cầu được? Thiền sư nói: Thầy Mạnh Tử nói không lầm, chỉ tại ông hiểu lầm thôi. Ông không nghe ngài Lục tổ Huệ Năng nói sao? Ngài nói: Hết thảy phước điền, không ngoài gang tấc, hễ tâm cầu chi đều cảm thông nấy. Cầu ngay nơi ta, không những được đạo đức nhân nghĩa, cũng được luôn công danh phú quý, hễ trong đạt được thì ngoài đạt được, nên càng thấy rõ hiệu nghiệm của tâm hướng nội mong cầu. Người nào không chịu khó ngó lui mình để tu tỉnh, cứ như một bề dong ruổi tìm cầu bên ngoài, tuy họ có lập cách tìm cầu thế nào chăng nữa, kết quả vẫn tùy số mệnh định đoạt cả thôi. Lối mong cầu nầy hoài công vô ích. Những người không chịu hồi tâm tu tỉnh, lo cầu mong phú quí công danh bằng con đường đạo đức nhân nghĩa, lại chỉ lo tìm cầu mọi thủ đoạn gian ác, rốt cuộc họ phải bị thiệt thòi cả hai mặt, là công danh phú quí không thành mà đạo đức nhân nghĩa cũng hỏng.
Thiền sư lại hỏi tôi về việc chấm số của Khổng tiên sinh, tôi thuật lại đúng cả mọi điều. Thiền sư hỏi lại tôi: Bây giờ ông thử xét lại ông còn có hy vọng thi đậu không? Tôi ngẫm nghĩ một hồi lâu rồi trả lời: Không thể. Người khoa giáp phải là người có phước tướng, còn tôi chỉ là kẻ bạc phước, lại không biết dồn chứa công hạnh làm nền tảng phước đức, không chịu khó giúp ai, không khoan dung đại độ, có khi còn cậy mình tài trí lấn lướt kẻ khác, nghĩ gì làm nấy, nói năng khinh suất dối trá, chẳng nể vì ai. Ðấy toàn là những tướng của kẻ bạc phước, làm sao tôi mong cầu được khoa giáp! Vả lại phàm đất nhớp mới có nhiều vi trùng sinh, nước trong thì đâu có cá lội, thế mà xét lại tính tôi vốn ưa tinh khiết, nên tôi không con là phải; phàm khí tiết ôn hòa mới nuôi dưỡng muôn vật, thế mà xét lại tính tôi hay nóng nảy, thế nên không con là phải; phàm nhân ái là gốc sinh hóa, nhẫn tâm là gốc suy tàn, thế mà xét lại tính tôi cứ khư khư danh tiết hão huyền, chẳng hề hy sinh giúp ai, thế nên tôi không con là phải. Ðó là chưa kể tôi còn có tật nói nhiều làm tổn khí, tật ưa uống rượu làm tán tỉnh, tật ưa ngồi suốt đêm không biết bảo tồn khí cốt và nếu kể hết tật xấu của tôi thì hẳn còn nhiều nữa...
Thiền sư nói: Không riêng gì một việc thi cử, chính tất cả mọi việc thế gian nầy thảy đều nằm trong lý nhân quả. Những người có được sản nghiệp trị giá ngàn vàng tức là người có được cái phước hưởng ngàn vàng đó, những người có được sản nghiệp trị giá trăm vàng tức là người có được cái phước hưởng trăm vàng đó, những người bị chết đói, tức là người có cái nghiệp chết đói đó. Thế mà người đời không nhận rõ lẽ nầy, cứ đổ dồn cho trời đất xui nên, kỳ thật trời đất bất quá chỉ gia thêm những điều mình đã tạo sẵn, chứ trời đất có bao giờ sanh được mảy may họa phúc nào cho ai đâu. Ngay đến việc sinh con cũng thế. Người nào có công đức trăm đời thời sẽ sinh con cháu trong mười đời kế tiếp gìn giữ; người nào có công đức ba đời, hai đời thời sẽ sinh con cháu trong ba đời, hai đời kế tiếp gìn giữ, còn người nào tuyệt nhiên không con, ấy là người chỉ có công đức mỏng manh vậy. Nay ông đã biết chỗ khuyết điểm của mình, ông hãy tận tình gột bỏ cái tướng không phát khoa giáp và không sinh con kia đi. Và muốn vậy, ông phải lo tích đức, phải mở lòng bao dung, phải giữ niệm hòa ái, phải yêu tiết tinh thần, bao nhiêu việc trước đập tan ngày qua đã chết, bao nhiêu việc sau phát khởi như ngày nay đã sinh, được vậy tức là ông tự làm một cuộc tái sinh đầy nghĩa lý đó.
Cái thân xác thịt còn có vận số, huống cái thân đầy nghĩa lý nầy lại không cảm thông cùng trời đất? Thiên thái giáp trong kinh Thi có câu: Trời làm ương nghiệt, mình có thể tránh, mình làm ương nghiệt không thể nào tránh. kinh Thi nói: Thường hay nói phối hợp thiên mạng chính là nói tự mình cầu được nhiều phước. Trước đây Khổng tiên sinh đoán số ông không phát khoa giáp, không sinh con, đó là điều ương nghiệt do trời đất gây ra, nó có thể tránh gỡ. Nếu ông mở rộng đức tính, gắng làm việc thiện, dồn chứa âm công, mình gây ra phước, há mình không được hưởng thụ hay sao?
Dịch là bộ kinh mưu tính việc sưu các ty hung giúp cho người quân tử - hạng người biết phản tỉnh tu đức. Nếu thật có cái thiên mạng cố định, ai tốt cứ tốt, ai xấu cứ xấu, thì đâu có thể nói đến chuyện mưu tính sưu các ty hung? Mở đầu kinh Dịch còn có câu: Nhà nào chứa điều thiện sẽ có thừa điều phúc (tất thiện chi gia tất hữu dư khánh), ông có tin nỗi điều ấy chăng?
Tôi tin lời Thiền sư nói, nên thành tâm bái lãnh. Tôi liền đến trước Phật đài tận tình phát lộ sám hối bao nhiêu tội cũ của mình, và dâng một sớ bạch, trước hết cầu được đăng khoa giáp, tiếp phát nguyện làm ba ngàn điều lành, để báo đáp ân đức của trời đất tổ tông.
Thiền sư đưa bảng "Công hóa cách" chỉ cho tôi, khiến cứ mỗi ngày có công việc thiện ghi vào, còn làm ra mấy việc ác thì thối trừ và gắng chuyên trì chú Chuẩn-đề, như thế sở nguyện của ông tất có hiệu nghiệm.
Thiền sư lại dạy tiếp: Một nhà Phù lục thường nói rằng: Người họa phù mà không hiểu cách thức, tất bị quỷ thần chê cười, song bí truyền của cách họa phù không chi lạ, chỉ cốt giữ tâm không lay động mà thôi. Khi cầm bút họa phù, điều cần thiết trước tiên phải dũ sạch muôn mối duyên lự trong lòng, tâm đừng khởi lên mảy may tưởng nghĩ nào cả. Ngay khi tâm bất động ấy, hạ bút chấm một chấm gọi là hỗn độn khai cơ, rồi từ đó tiếp huơ bút họa viết, không để một tư lự nào móng lên, được như thế là điệu phù thành linh nghiệm. Phàm người kỳ đảo trời đất cầu sửa đổi số mệnh cũng phải làm như thế, phải do từ cái tâm không vọng động, không loạn tưởng khởi mới có cảm cách.
Khi thầy Mạnh Tử luận đến cái học lập mạng có câu: yểu và thọ không hai. Thực tế ta thấy chết yểu và sống lâu hai điều khác xa nhau, tại sao thầy Mạnh lại nói khác? Nên biết khi tâm không vọng niệm, thì ngay đó đâu có phân chia số mạng thọ yểu, giàu nghèo, cùng thông... Chỉ từ tâm móng khởi thiện ác mới tạo nên những số mệnh sai khác giữa giàu nghèo v.v... Nhưng phàm đã sinh ra ở đời, ai không coi việc chết sống là quan trọng, nên trên đây chỉ nói đến việc sống lâu và chết yểu, kỳ thật ý đã bao gồm tất cả mọi sự thuận nghịch xảy ra trên suốt cả đời người.
Ðến như câu "Tu thân dĩ sĩ chi" mà Mạnh Tử đã nêu lên, là cốt nhắc người đời nhớ lấy điều tích đức tu nhân làm hệ trọng.
Hễ tu được nhân đức thời dầu có mọi tội lỗi vẫn cải bỏ được hết, và nói chờ đợi (sĩ) tức có ý nói gắng lo tu nhân tích đức đến khi công phu sâu dầy, tự nhiên số mệnh thay đổi, chớ không phải chỉ đem cái hy vọng suông cầu cho được thế nầy thế kia mà được kết quả thế nầy, thế kia. Người thông đạt đạo lý, dù một mảy may hy vọng cũng chẳng để dính mắc trong lòng, được như thế mới đạt đến cảnh giới bất động niệm hồn nhiên, mới đạt đến chỗ thật học cao siêu.
Nay Ông chưa được "không tâm", Ông hãy trì niệm chú Chuẩn-đề, cần niệm mãi không gián đoạn, không cần kể số ít nhiều, trì niệm đến khi nào được thuần thục, trong trì niệm mà không trì niệm, trong không trì niệm mà trì niệm, thì bây giờ được tâm không lay động, mà có sự ứng nghiệm rõ ràng.
Sau khi được Thiền sư chỉ dạy, tôi liền đổi hiệu Học Hải trước kia để lấy Liễu Phàm, vì từ đây đã hiểu cái lý nghĩa lập mạng là thế nào, không muốn để mình rơi vào sào huyệt phàm phu nữa. Từ nay trở đi, suốt ngày gìn giữ cẩn thận, do đó tôi tự thấy ngày nay khác xa ngày trước. Ngày trước tôi chỉ là con người lêu lỏng buông xuôi, nhưng từ nay tôi đã biết lo gìn lòng giữ ý, cẩn thận từng khắc từng giờ, dẫu ở chỗ kín đáo riêng tư, lòng vẫn sợ lỡ làm điều chi sai quấy, mắc tội với trời đất, hoặc dẫu gặp ai ganh ghét, phá phách, tôi cũng cố giữ tánh điềm nhiên hỷ xả.
Bước sang năm sau, bộ Lễ mở khoa thi, Khổng tiên sinh đoán bộ sẽ khảo thí từ tên đậu ba trong khóa trước trở xuống, nhưng nay bộ lại khảo thí từ tên đậu nhất. Thế là lời dự đoán của Khổng tiên sinh lần nầy không ứng nghiệm; và Tiên sinh không đoán tôi được đậu Cử nhân thế mà tôi đã đậu Cử nhân trong kỳ Hương thi mùa thu!
Tuy nhiên tôi tự xét việc hạnh nghĩa mình làm chưa thuần thục, sai sót còn nhiều. Hoặc có khi thấy việc lành mà làm không hăng hái, hoặc có khi cứu giúp người mà tâm còn do dự, hoặc có khi thân gắng làm lành mà miệng có nói ác, hoặc khi tỉnh thì tháo vác mà khi say lại phóng dật... tôi đem tội chiết tính bù trừ với công, thì thấy hẳn có nhiều ngày mình sống uổng! Tôi phát nguyện từ năm Kỷ tỵ mà mãi đến năm Kỷ mão, suốt 10 năm, mới hoàn thành ba ngàn việc thiện! Khi rời Lý Tiệm Am tiên sinh để vào Bản bộ Trung Quốc, tôi chưa kịp làm lễ hồi hướng ba ngàn việc thiện kia, năm Canh thìn có dịp trở lại Nam Biên, tôi mới thỉnh các Hòa thượng Thánh Không, Huệ Không đến Ðồng tháp Thiền đường chứng minh cho lễ hồi hướng, nhân đó tôi lại phát nguyện làm thêm ba ngàn điều lành khác để cầu sinh con, và đến năm Tân tỵ, tôi đã may mắn hạ sinh một quý tử. Mỗi lần làm một việc gì, tôi liền lấy bút ghi vào sổ, vợ tôi không viết được, nên hễ làm được việc gì thì lấy nắp bút chấm son ấn vào tờ lịch một khoanh tròn. Chẳng hạn như bố thí cho người nghèo, mua vật phóng sinh, tính ra mỗi ngày có đến mười khoanh. Sang tháng tám năm Quí mùi, tính lại đủ số ba ngàn điều lành, sau khi đã khấu trừ các điều ác. Tôi lại thỉnh các Hòa thượng Thánh Không, Huệ Không đến nhà chứng minh lễ hồi hướng. Ngày 13 tháng 9, tôi lại phát nguyện làm thêm một vạn điều lành, cầu thì đậu Tiến sĩ, quả nhiên năm Bính tuất tôi thi đậu và được bổ làm Tri huyện Bửu Ðê.
Trong lúc làm Tri huyện, tôi sắm sẵn một tập sách để ghi thiện ác, đặt tên là Trị Tâm Thiền (sách sửa lòng). Cứ mỗi sáng dậy, gia nhân đem nó giao lính hầu đem đến để trên án làm việc. Nếu trong ngày, tôi làm được điều lành điều dữ nào dù lớn dù nhỏ đều ghi rõ ràng vào sách, đêm đến thiết án giữa trời, bắt chước ông Triệu Duyệt Ðào thắp hương cáo với trời đất (1). Vợ tôi thấy đã lâu mà chẳng làm được bao nhiêu việc lành, mới chau mày buồn bã nói: Trước Ông ở nhà có tôi giúp sức, nên Ông đã làm đủ ba ngàn điều lành theo sở nguyện. Nay Ông nguyện làm thêm một vạn điều, nhưng ở tại công đường chẳng có việc gì để làm, thì biết bao giờ Ông mới làm đủ số ấy. Ðêm đó, mộng thấy một Thần nhân, tôi mới than thở về lý do khó là đủ các điều lành minh đã hứa. Thần nhân bảo: Chỉ một việc giảm khinh tiền thuế cho dân của Ông vừa rồi, cũng đủ sánh bằng một vạn điều lành. Nghe lời Thần nhân bảo, tôi liền xét lại nhớ mình có làm việc đó thật. Vì khi trước thuế ruộng của huyện Bửu Ðê, mỗi mẫu phải đóng 2 phân 3 ly 7 hào, xét ra quá nặng đối với muôn dân nên tôi đã khu xữ làm cho giảm xuống mỗi mẫu chỉ đóng 1 phân 4 ly 6 hào. Tuy vậy, tôi vẫn hồ nghi không hiểu tại sao việc làm đó lại có thể sánh bằng một vạn điều lành, may đâu gặp được Huyền Như Thiền sư vừa từ núi Ngũ Ðài đến, tôi đem chuyện nằm mộng ra hỏi có đáng tin không, Thiền sư trả lời: Hễ có thiện tâm chân thiết, thì một việc lành có thể đương được muôn việc lành, huống chi giảm thuế cho cả một huyện, muôn dân đều chịu ơn. Tôi liền cúng một số tiền lương, nhờ Thiền sư đem về Ngũ Ðài trai Tăng một vạn vị sư, gọi là để làm lễ hồi hướng cho tôi.
Khổng tiên sinh trước kia đoán tôi đến năm 53 tuổi gặp tai nạn, nhưng đến năm đó chẳng có gì xảy ra, dù tôi không hề cầu đảo xin tăng thọ, và nay thì tuổi tôi đã 69 rồi. Trong Kinh Thi có câu: Trời không dễ tin, mạng không định thường, lại có câu: Vận mạng chẳng nhất định. Những câu ấy đâu phải là lời dối trá! Do đó tôi biết chắc rằng, họa phúc đều phải cầu ngay nơi mình, đó mới thật đúng ý của Thánh Hiền, ngược lại người nào nói họa phúc do mệnh trời, thì đó là lối suy luận thông thường của kẻ thế tục.
Hiện tại số mệnh mỗi người thế nào chưa dễ biết được. Vậy đang khi được hiển vinh hãy tưởng như gặp điều không vừa ý, đang khi được thuận lợi hãy tưởng như gặp điều trái nghịch, đang khi được sung túc hãy tưởng là thiếu nghèo, đang khi được mọi người ái kính hãy tưởng khi bị khuất phục, đang khi gia thể trọng vọng hãy tưởng như mình ở hạng thấp hèn, đang khi có chút học vấn uyên thâm hãy tưởng mình còn thiển cận. Xa về trước, nghĩ tới công đức tổ tiên để lo kế tuyên dương, gần hiện tại, nghĩ tới lầm lỗi của cha mẹ mà tìm cách bồi bổ, trên lo đền ơn trước, dưới lo tạo phước gia đình, ngoài thì giúp người tai nạn, trong thì lo ngăn ngừa tà ác chính mình. Cốt phải ngay thấy chỗ sai quấy của mình để lo toan hối cải. Nếu một ngày không tự biết mình quấy tức một ngày an lòng tự cho mình là phải, một ngày không ăn năn hối quá tức một ngày không tiến bộ. Hạng người thông minh tuấn kiệt trong thiên hạ đâu phải hiếm, nhưng nếu họ không gắng lo tu đức, mở mang thiện nghiệp, họ cũng chỉ sống một đời đình trệ, an phận dật dờ gặp chăng hay chớ mà thôi!
Cái thuyết lý an thân lập mạng của Vân Cốc Hội Thiền sư trao dạy trên đây thật là chí tình, chí lý, chí chân, chí chánh. Nếu biết ngẫm kỹ và thực hành sẽ khỏi một đời luống trôi vô ích vậy.


2. Hối cải lỗi lầm
Những quan đại phu thời Xuân Thu, thường quan sát sự nói năng hành động của mọi người để đoán định điều họa phúc của họ, phần nhiều đúng nghiệm cả. Những điều nầy đều có ghi trong các bộ Tả truyện, Quốc ngữ, hãy đọc đến tất thấy.
Hầu hết những triệu chứng tốt xấu, đều manh nha từ trong tâm ý rồi hành động ra tay chân. Nếu một người thiên hẳn về phúc hậu họ thường gặp phước, một người thiên hẳn về khắc bạc họ thường mang họa. Song người phàm mắt tục ít ai thấy rõ điều nầy, mới vội cho họa phúc báo ứng mâu thuẫn khó lường!
Hễ người nào đem tâm thành tín làm việc thiện tất yếu việc làm của họ hợp cùng chân lý, mà hạnh phúc sẽ đến với họ, trái lại thì tai họa theo chân. Cứ xem ở điều lành điều ác của họ làm, người ta cũng biết trước việc đó. Nhưng những người muốn lánh họa cầu phúc, hãy lo ăn năn cải quá, trước khi nói tới việc làm lành.
Theo pháp cải hoá, đầu tiên phải có tâm biết hổ thẹn, nghĩ rằng ta cũng là bậc trượng phu nam tử như cổ Thánh tiên Hiền, thế sao các ngài làm thầy cả thiên hạ, được muôn đời tôn thờ, còn ta lại cứ lẹt đẹp thấp hèn một đời ngói bể, cứ lo say đắm dục tình, thầm lén làm điều bất nghĩa, còn cho là không ai biết, Vễnh mặt ngạo nghễ không chút thẹn thùng, đến đổi mỗi ngày mỗi sa đọa xuống hàng cầm thú mà không tự biết, thật chẳng còn chi hổ nhục cho bằng!
Thầy Mạnh Tử nói: Ðiều lớn lao khẩn yếu nhất đối với con người là tâm biết hổ. Vì rằng hễ người nào giữ được tâm đó thì trở nên Thánh Hiền, kẻ nào bỏ mất tâm đó thì chẳng khác chi cầm thú. Cho biết tâm hổ thẹn là động cơ chính trong việc cải hoá tự tâm.
Thứ hai, phải có tâm sợ hãi. Hãy nghĩ rằng mình làm việc gì đều có Thánh thần ở trên mình, xung quanh mình biết rõ, không dối trá được. Dẫu mình có phạm tội lỗi nhỏ nào, người đời đều không thấy, Thánh thần đâu có mù mờ. Hễ tạo tội nặng, có trăm họa kéo theo, gây tội nhẹ thì giảm mất phước báo hiện tiền. Như vậy sao được không dè dặt sợ hãi. Chẳng những thế thôi, ngay lúc nhàn cư, thần linh càng thấy rõ. Mặc dù ta có che dấu những điều mình làm kín đáo đến đâu, trau chuốt khéo léo thế nào, oan trường vẫn bị bại lộ, cuối cùng không thể tự dối; huống chi đã bị mọi người dòm thấy thì dù một chút giá trị chẳng còn, như vậy há không đáng cẩn thận sao? Vả lại, khi còn hơi thở, dù có gây ác tày trời vẫn còn mong hối cải, nên lắm người một đời tạo ác, đến phút lâm chung biết hối ngộ, nhất một niệm thiện tâm mãnh liệt, họ vẫn có thể hưởng được một cái chết an lành. Cổ đức nói: Một niệm lành mãnh liệt đủ rửa sạch tội trăm năm, ví như cái hang sâu tối ngàn năm, chỉ rọi một ngọn đèn, bóng tối kia liền biến mất. Vậy không kể tội lỗi đã tạo lâu hay mới tạo, miễn biết thành thật hối cải là tội hết. Trần thế vô thường, mạng người chẳng mất, khi hơi thở ra không vào, dù muốn hối cải chẳng kịp nào. Kẻ làm ác đã phải mang tiếng ác suốt trăm ngàn năm trên dương thế, không con hiền cháu thảo nào rửa sạch, lại phải chịu ngục báo trầm luân muôn vạn đời, dù Thánh hiền, Phật, Bồ-tát cũng khó lòng cứu vớt.
Như thế là không kiêng sợ được ư?
Thứ ba, phát tâm dõng mãnh: những người không ăn năn hối hoá, phần nhiều là những người dần dà có tánh thụt lui. Biết vậy, ta cần phải dũng mãnh hăng hái, đừng nên do dự, đừng nên chần chờ, hãy xem tội nhỏ như bị mũi nhọn châm làm thúi thịt, mau mau khoét vất, sợ tội lớn như bị rắn độc cắn tay, mau mau cắt bỏ, không được trì trễ phút nào. Càng trễ càng nguy, càng mau càng có lợi.
Những người có đủ ba thứ tâm nói trên, dù có tội lỗi đến đâu vẫn cải đổi được như băng sương gặp ánh mặt trời làm sao không tan biến. Nhưng nên biết có những tội lỗi được cải đổi do việc làm thực sự, có những tội lỗi được cải đổi do triệt ngộ đạo lý, có những tội lỗi được cải đổi do tận tâm. Công phu không đồng nên hiệu quả cũng khác.
Chẳng hạn ngày trước sát sanh nay sẽ răn dè đừng giết, ngày trước nóng giận nay phải răn dè đừng nóng... đó là cách hối lỗi do việc làm thực sự. Lối nầy chỉ mới là lối cưỡng chế bên ngoài, khó lòng sạch tội, vì bệnh căn còn chất chứa trong lòng, thì tội dù diệt bên Ðông lại mọc bên Tây, nên hối cải hoá nầy chưa phải là hoàn hảo cứu cánh. Vậy muốn dứt lỗi triệt để, trước khi cưỡng chế sự việc phải thấu rõ đạo lý. Như muốn chừa bỏ tội sát sanh trước hãy rõ lẽ nầy:
Trời đất vốn hiếu sinh, muôn loài đều tiếc mạng, giết vật để nuôi mình, làm sao yên lòng được. Vật bị giết đã đành phải chịu cắt xẻ, nếu đau đớn tận xương tủy, ảo não muôn phần, mà ta ăn vào dù béo bổ ngon bùi đến đâu hễ nuốt khỏi cổ liền trở thành đồ hôi thối rồi tiêu ma, chi bằng rau dưa vẫn no bụng, còn tránh khỏi cái tội sát sanh làm tổn phước mình không ít. Vả chăng, phàm là loài huyết khí đều có tính linh tri, đã có tính linh tri thì cùng ta không khác (vật ngã nhất thể). Ví bằng không thực hành nổi những điều chí đức khiến chúng nó kính ta, thân ta, thì cũng chớ nên mỗi ngày sát phạt sinh linh, khiến chúng nó mãi oán ta thù ta đời đời kiếp kiếp! Người nào đã nghĩ được như thế thì dẫu muốn giết vật ăn thịt, cũng thấy thương tâm chẳng ham ăn nữa.
Lại nếu muốn trừ bỏ tật hay nóng giận thì trước hãy suy nghĩ: Người có chỗ hư hỏng không bằng ta là người đáng thương, còn người trái lẽ xâm phạm ta, lỗi ấy thuộc về họ, chớ ta can dự gì mà nổi cơn giận dữ. Huống hồ trong thiên hạ không đáng hào kiệt nào là người nặng tánh tự thị, cũng không bậc học thức nào là người hay oán trách tha nhân, vì họ biết rõ việc mình làm không thành là bởi đức tu của mình chưa thấu đáo, cho cảm ứng chưa tới nơi, họ luôn luôn phản tỉnh, nên đối với họ dù gặp những điều hủy báng, cũng xem như cơ hội tốt để mà luyện tâm đức, mà luôn luôn hoan hỷ đón nhận không hề phẫn nộ.
Khi nghe lời hủy báng mà không phẫn nộ thì dù ngọn lửa bài báng cao ngất trời xanh cũng tự nhiên tắt biến như phóng lửa đốt hư không.
Trái lại hễ nghe lời dèm chê vội nóng giận thì dù có khôn ngoan xảo biện đến đâu, cũng chỉ như tằm xuân kéo kén, càng kéo lại càng buột chặt mình. Nóng giận, chẳng những vô ích mà còn gây nên tai hại đến thế.
Ngoài các tính nóng giận còn bao nhiêu tính xấu khác đều có thể suy biết, và hễ rõ thấu lẽ nầy thì tội lỗi nào cũng trừ diệt được.
Thế nào là tội từ tâm cải? Tội lỗi vô vàn đều do tâm tạo, tâm không vọng động thì tội lỗi dựa vào đâu phát sinh? Kẻ học thức không cần phải phanh tìm từng bệnh hiếu sắc, hiếu danh, hiếu tài, hiếu nộ, nhưng chỉ cần nhất tâm hành thiện, giữ gìn chánh niệm tự khắc tiêu tan như vầng thái dương chiếu giữa hư không, mọi thứ ma mị đều bặt dấu.
Tội lỗi do tâm tạo tất cũng do tâm cải đổi, như muốn chặt cây độc, chỉ chặt ngay gốc nó, chớ cần chi phải tỉa từng nhánh lá nhọc công lâu lắc.
Ðại để cách đối trị tâm bệnh hay nhất là giữ lòng cho thanh tịnh. Hễ tâm vừa móng động liền giáo biết, biết tất liền tiêu. Hoặc nó không tiêu, hãy quán xét lý lẽ nói trên để trừ đoạn, nếu cũng không trừ được, thì lại lấy sự để cấm chỉ. Trước lo tu tâm sau lo khởi công hạnh sự. Như thế mới là lối sửa chữa tội lỗi đắc sách nhất.
Khi phát nguyện cải quá cần phải nhờ thiện hữu đề huề, cầu Hiền Thánh chứng tri. Nhất tâm sám hối ngày đêm không giải đải, trải qua một thất (bảy ngày), hai thất, cho đến một tháng, ba tháng, tất sẽ có hiệu nghiệm rõ ràng, hoặc tự thấy tâm thần thoải mái, trí tuệ mở mang, hoặc đang trong chỗ phiền toái rối ren mà gặp đâu thông suốt đó, hoặc gặp oán cừu mà họ bỏ giận làm lành, hoặc mộng thấy khạc nhổ vật đen, mộng thấy được các bậc Thần, Thánh, Tiên, Hiền đề huề tiếp dẫn, hoặc mộng thấy bay đi giữa hư không, mộng thấy tràng phan bảo cái đưa rước, tóm lại là gặp được các chuyện tốt lành nhờ lỗi tiêu, tội diệt hiện ra. Tuy nhiên, không được cố chấp lấy đó để tự cao tự đại, lãng quên bề tiến hóa.
Xưa ông Cừ Bá Ngọc, đang lúc 20 tuổi đã biết xét tội lỗi lúc thiếu thời để lo chừa bỏ, đến lúc 21 tuổi vẫn thấy rõ lỗi trước chưa sạch, đến 22 tuổi lại thấy lúc 21 tuổi còn như kẻ ở trong mộng. Cứ mỗi năm lại mỗi năm, ông không ngớt cải đổi, đến lúc 50 tuổi ông còn thấy gì sai quấy lúc 49 tuổi. Cái lối cải quá của người xưa như thế thật đáng phục thay!
Chúng ta hiện mang thân phàm tục, tội ác dập dồn, thế mà ít ai xét thấy, đó phải chăng là vì tâm còn thô và mắt bị lòa? Dù thấy không thấy mặc lòng, hễ đã tạo tội ác sâu dầy tất không tránh khỏi những điều bất hảo, hoặc tâm thần hôn muội, chưa nhớ đã quên, hoặc thường sinh phiền não dẫu không việc gì xúc động, hoặc gặp người quân tử thì hoảng sợ mặt đỏ hồn tiêu, hoặc chẳng ưa nghe lời hay lẽ phải, hoặc giúp người mà lại bị người oán, hoặc mộng thấy điên đảo, đến nỗi nói cuồng thất chí... đó toàn là các tướng quái nghiệt của tội ác hiện ra, người nào gặp cảnh như thế nầy cố gắng dõng mảnh cải quá tự tân, may ra mới khỏi điều mê hoặc.


3. Chứa đức làm lành
Kinh Dịch nói: Nhà nào chứa lành sẽ có dư phúc.
Xưa nhà họ Nhan trước khi muốn gả con gái cho Thúc Lương Ngột đã không quên tra xét công việc chứa đức của Tổ tông nhà ấy để suy xét con cháu về sau chắc chắn hưng xương.
Ðức Khổng Tử có lời khen vua Thuấn là đại hiếu rằng: Ông Thuấn mà tế Tổ tông thì Tổ tông chứng hưởng, phước để con cháu thì con cháu được trông nhờ.
Ông Thiếu sư Dương Vinh người đất Kiên Ninh, nhà đã nhiều đời sống với nghề đưa đò, có một lần xảy ra cơn mưa lụt nước ngập tràn phá hại dân cư, nhiều người bị trôi theo dòng nước. Trong lúc đó, mọi kẻ khác lo bơi thuyền vớt của, riêng ông cố và ông nội của Thiếu sư lại lo tìm vớt người, chẳng chút để tâm tới tài vật, người chung quanh thấy thế chê là ngu, nhưng từ ngày thân phụ Thiếu sư ra đời, nhà ông dần dần thịnh vượng. Có một Thần nhân gia hình Ðạo sĩ đến nói với ông rằng: Tổ phụ nhà người có âm đức, con cháu sẽ nên quý hiển. Quả thật sau sinh Thiếu sư, mới 20 tuổi đã đậu đại khoa, làm quan tới chức tam công, và cả ông cố, ông nội và thân phụ của Thiếu sư đều được phong chức quan lớn. Ai cũng biết dòng dõi nhà nầy đến nay vẫn phát nhiều người hiền tài xuất chúng.
Ông Dương Tự Trưng, người huyện Cần, lúc đầu được làm huyện Lại, giữ lòng nhân hậu, xử đoán công minh, nhân một lần ông gặp quan Tri huyện đánh khảo một tên tù máu tuôn lai láng mà vẫn chưa đã giận. Dương Tự Trưng mới quỳ gối khuyên giải, ông Tri huyện trả lời: Những kẻ làm điều vượt pháp trái lẽ thế nầy, khiến ai không giận được.
Dương Tự Trưng cúi đầu nói: quan trên đã bỏ rơi pháp luật, khiến dân lý tán lâu ngày rồi, nay giả sử quan huyện xét thấy người kia quả có tội phạm, động lòng thương xót buồn bã, thế mà xử trị sợ còn chưa được công minh, huống lại nổi giận đùng đùng, làm sao công minh được. Nghe câu ấy quan huyện liền dịu lòng thôi giận.
Dương Tự Trưng tuy nhà rất nghèo, nhưng ai tặng biếu gì cũng không nhận. Hễ gặp tù nhân thiếu thốn ông thường tìm cách giúp đỡ.
Một lần nọ có vài người tù đang đói đến xin, gặp lúc nhà ông thiếu gạo, nếu giúp cho tù thì người nhà phải nhịn đói, còn để cho người nhà ăn thì cảnh tù đói đáng thương, ông mới thương lượng với vợ.
Vợ ông hỏi: Các người tù ấy đâu đến? Ông đáp: Từ Hàng Châu đến. Nhận thấy họ đi xa đói khát, mặt mày xanh xao hốc hác đáng thương, vợ chồng ông liền đem phần gạo của mình nấu cháo cho họ ăn.
Về sau hai vợ chồng sinh được hai trai, một tên Thủ Trần, một tên Thủ Chí. Cả hai đều làm quan tới chức Lại bộ tả hữu thị lang. Cháu trưởng làm Hình bộ thị lang, cháu thứ làm chức Liêm hiến tỉnh Tứ Xuyên, toàn là những vị triều thần tên tuổi còn để tiếng đời nay.
Khoảng niên hiệu Chánh Thống đời Minh, có Ðặng Mậu Thất nổi loạn tại tỉnh Phúc Kiến, sĩ dân trong xứ theo rất đông, triều đình cử quan Ngự sử Trương Giai dùng mưu bắt giặc, sau ông nầy lại ủy quan Bố chánh họ Tạ làm chức Ðô sự tìm giết đảng giặc. Tạ xét trong sổ hễ thấy người nào nghi không thực sự oan phạm, thì âm thầm trao cho một lá cờ nhỏ vải trắng, dặn khi nào quân binh đi đến thì cắm cờ ấy ra trước cửa, đồng thời ra lệnh cho quân lính không ai được giết càn, nhờ đó hàng vạn người sống sót khỏi bị chết oan. Về sau con của Tạ là Thiên, thi đỗ Trạng nguyên, làm Tể tướng, cháu Tạ tên Phỉ, thi đỗ Thám hoa.
Nhà họ Lâm ở huyện Phố Ðiển, nhiều đời trước trong nhà có một bà lão ưa làm việc thiện. Bà thường lấy bột gạo làm thành từng vắt để bố thí. Hễ ai đến xin là cho, không hề tỏ vẻ buồn chán. Có một vị Ðạo nhơn hằng ngày đến xin sáu, bảy vắt, bà lão vẫn vui lòng cho, suốt ba năm liền như thế. Vị Ðạo nhân biết bà ta thật có lòng thành, mới bảo rằng: Tôi ăn của bà suốt ba năm, bây giờ biết lấy gì báo đáp, thôi tôi chỉ cho bà biết ở sau phủ bà ở có chỗ đất tốt, bà hãy dặn con cháu say nầy đem bà đến đó, chôn, tất con cháu sẽ phát tước lộc lớn. Về sau con cháu y lời dặn chôn bà. Quả thật đời thứ nhất có tới chín người đỗ đạt, và tiếp tục nhiều đời nhà nầy trở thành một nhà thế kiệt trâm anh, đến đỗi tại tỉnh Phúc Kiến có câu ca dao: Thiếu mặt người họ Lâm thì bảng vàng không nở.
Tóm lại những điều trên, tuy thi hành với nhiều lối, nhưng rốt lại đồng là việc thiện. Những việc thiện nầy nếu gia tâm xem xét kỹ sẽ thấy có chân có giả, có thẳng có công, có âm có dương, có thị có phi, có thiên có chánh, có nửa có toàn, có lớn có nhỏ, có khó có dễ.
Nếu làm lành mà không thấu đạt lý lẽ nầy, nhiều khi khổ công nhọc trí, chẳng đem lại lợi ích gì.


4. Ðức khiêm hư
Kinh Dịch có câu: Thiên đạo thường làm khuy tổn chỗ dinh kiêu mà ích bồi nơi khiêm hư, địa đạo làm biến cải chỗ dinh kiêu mà lưu nhận nơi khiêm hư, quỷ thần thường làm hại trừ chỗ dinh kiêu mà tăng phúc nơi kiêm hư, nhân đạo thường chán ghét chỗ dinh kiêu mà ưa chinh nơi khiêm hư. Thế nên trong một quẻ Khiêm mà sáu hào đều tốt.
Kinh Thư nói: người tự kiêu tự mãn thường bị nạn, kẻ khiêm nhượng hư tâm thường đắc ích.
Tôi từng cùng bạn bè nghiệm thử, thường thấy kẻ hàn sĩ khi sắp hiển đạt, bao giờ cũng có một lúc đức khiêm tốn hiện trên nét mặt.
Khoa thi năm Tân mùi, tôi cùng mười người bạn ở huyện Gia Thiện đi thi, trong đó có anh Ðinh Kính Vũ, người tuy trẻ mà rất có tính khiêm nhượng hư tâm. Tôi nói với anh Phí Cẩm Pha, thế nào khoa nầy anh Ðinh Kính Vũ cũng đỗ. Anh Phí gạn lại: làm sao biết? Tôi đáp: chỉ người có đức khiêm hư mới được phước. Anh thử xem trong bọn mười người chúng ta có ai có tính khiêm nhượng bằng anh Ðinh Kính Vũ đâu?
Có ai bị chơi chọc mà không đối trả, bị chê bai mà không biện bạch như anh Ðinh Kính Vũ đâu? Người có đức nết như thế, thế nào cũng được trời đất hộ độ, làm sao không phát được. Quả nhiên lúc treo bảng thấy có tên anh Ðinh đậu cao!
Năm Ðinh sửu tôi ở chung với anh Bằng Dữ Chi tại Kinh đô, bỗng thấy anh có phong độ khiêm tốn hư tâm khác hẳn tính tình hồi nhỏ.
Bạn anh ta, ông Lý Tế Nham, là người cương trực mà thành thực, thưởng thẳng thắn chỉ lỗi anh ngay mặt, nhưng lúc nào cũng thấy anh bình tĩnh nghe theo chẳng hề thốt một lời cãi cọ. Thấy vậy tôi nói thầm phước có phước hiện ra sau họa có họa phát ra trước, anh nầy quả có hư tâm khiêm tốn như thế, anh chắc chắn gặp được điều hay, thế nào anh ta cũng đậu kỳ nầy. Sau quả thật đúng như lời tôi dự đoán.
Ông Trương Úy Nham người huyện Giang Âm, học rộng văn hay, có nhiều tiếng tăm trong văn giới. Năm Giáp ngọ ông đến thi Hương tại Nam Kinh, nhân ở lại một ngôi chùa. Khi treo bảng thấy không có tên mình, mới nổi nóng mắng nhiếc giám khảo là đồ lòa mắt chẳng trông thấy văn mình. Một vị Ðạo nhân gần bên nghe thấy mỉm cười, Trương giận luôn vị Ðạo nhân.
Vị Ðạo nhân nói: Văn của tướng công chắc không hay lắm.
Trương càng giận, nộ rằng: Ông không thấy văn tôi, sao biết văn tôi không hay.
Vị Ðạo nhân nói: Tôi từng nghe kẻ làm văn quý hồ tâm khí bình hòa, nay thấy tướng công nóng giận mắng nhiếc lung tung, không có chút chí hòa khí thì văn hay vào đâu được.
Trương bỗng đổi giận, tỏ lòng kính phục và xin chỉ giáo.
Ðạo nhân nói: Thi hỏng hay đậu là do mạng. Mạng không đậu thì dù văn hay cũng vô ích, vậy ông cần để ý chuyển biến mạng mình.
Trương nói: đã là mạng thì làm sao chuyển biến được?
Ðạo nhân nói: tạo mạng do nghiệp xưa, lập mạng do nghiệp nay, nếu ông gắng làm việc thiện, dồn chứa âm đức, thì có phước gì mà không cầu được.
Trương nói: Tôi chỉ là một tên bần sĩ, làm sao làm được sự nầy.
Ðạo nhân nói: việc lành, âm đức đều do tâm tạo, thường bảo tồn tâm đó thời công đức vô lượng. Ngay như đức tính khiêm hư đâu phải mất tiền mới làm được, thế mà ông không biết tự tỉnh để mà làm, lại giận trách quan trường dốt nát, phải chăng đó chỉ là tự ông không muốn làm chớ không phải không thể làm?
Từ đó Trương để ý kiềm chế kiêu khí, ngày ngày tu nhân bồi đức. Năm Ðinh dậu, Trương mộng thấy đi đến một căn phòng cao lớn, gặp được một bảng ký lục chuyện thi, thấy ở giữa có nhiều hàng bỏ trống không tên. Một người đứng bên nói: đây là bảng ghi chép khoa thi năm nay. Trương hỏi: sao bỏ trống nhiều chỗ không tên? Người ấy đáp: về việc thi cử cứ ba năm xét một lần, hễ người nào chứa nhiều công đức, thì mới có tên vào đó. Chỗ bỏ trống trong bảng ký lục nầy là tại trước kia người có công đức đáng đậu, sau vi phạm tội ác mà tên bị xóa đi. Cuối cùng lại thấy một dòng chữ rằng: người ba năm lại đây giữ thân cẩn thận, tên ngươi có thể được điền vào bảng nầy, hy vọng ngươi cố gắng. Quả nhiên khoa ấy, Trương được đậu thứ 105 trên bảng vàng.
Lời xưa nói: Người có chí ở công danh tất được công danh, người có chí ở giàu sang tất được giàu sang. Người có chí như cây có gốc. Khi đã lập chí phải thường nên tập tính khiêm hư, dè chừng mọi điều hành động, được như thế tự nhiên cảm động đất trời mà phúc đức đầy đủ nơi ta vậy.


 Phương pháp tích thiện


1. Bàn luận rõ ràng về thiện
Nếu xét một cách tinh tường mà nói, thì thiện có chân có giả, có ngay thẳng có khuất khúc, có âm dương, có phải hay chẳng phải, có thiên lệch hay chính đáng, có đầy có vơi, có tiểu có đại, có dễ hay khó, đều cần bàn luận rõ ràng.
Làm việc thiện mà không hiểu rõ đạo lý, cứ tự cho việc mình làm là hành thiện, ắt không khỏi tạo nghiệp, uổng phí mất tâm tư một cách vô ích.


Thế nào là chân thiện và giả thiện?
Xưa có một số nho sinh yết kiến Trung Phong hoà thượng (một vị cao tăng triều đại nhà Nguyên), mà hỏi: Nhà Phật bàn thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức làm lành gặp lành, làm ác gặp ác, nay có người nọ thiện mà con cháu không được thịnh vượng, mà kẻ kia ác thì gia đình lại phát đạt, vậy là Phật nói về việc báo ứng thực vô căn cứ sao?
Hoà thượng nói: Người phàm tâm tính chưa được tẩy sạch, chưa được thanh tịnh, tuệ nhãn chưa khai, thường nhận thiện làm ác, cho ác là thiện; người như vậy không phải là hiếm có, đã tự mình lẫn lộn phải trái cho ác là thiện, cho thiện là ác, điên đảo đảo điên mà không hay lại còn oán trách trời cho báo ứng là sai, là không công bằng ư.
Bọn nho sinh lại hỏi: Mọi người thấy thiện thì cho là thiện, thấy ác thì cho là ác, sao lại bảo là lẫn lộn đảo điên vậy?
Hoà thượng bảo họ thử thí dụ xem sự tình thế nào là thiện thế nào là ác. Một người trong bọn nói : mắng chửi đánh đập người là ác , tôn kính lễ phép với người là thiện.
Hoà thượng nói không nhất định là như vậy.
Một người khác cho là tham lam lấy bậy của người là ác, gìn giữ sự thanh bạch liêm khiết là thiện.
Hoà thượng cũng bảo không nhất định là như vậy.
Mọi người đều lần lượt đưa ra thí dụ về thiện và ác, nhưng Trung Phong hoà thượng đều bảo là không nhất định là như vậy.
Nhân thế bọn họ đều thỉnh hoà thượng giảng giải cho.


2. Định nghĩa chữ thiện
Hoà thượng Trung Phong chỉ dạy rằng: Giúp ích người gọi là thiện, chỉ vì ích mình gọi là ác. Vì giúp ích người cho nên dù có đánh mắng cũng vẫn là thiện, trái lại chỉ vì ích mình nên dù có kính trọng người cũng vẫn là ác.
(1). Vì vậy người làm thiện đem lại ích lợi cho người là công, mà công tức là chân, còn vì lợi mình ấy là tư, mà tư tức là giả.
Lại việc thiện tự lòng phát ra là chân, tập theo thói cũ là giả, không trước tướng mà làm chân, trước tướng mà làm giả...
Lại nữa làm việc thiện mà xuất phát từ tấm lòng thành là chân thiện, còn hời hợt chiếu lệ mà làm là giả thiện. Hơn nữa hành thiện mà không nghĩ đến một sự báo đáp nào cả là chân thiện, trái lại còn hy vọng có sự đền đáp là giả thiện, đó là những điều tự mình cần khảo sát kỹ lưỡng.


Thế nào là âm thiện,dương thiện?
Phàm làm việc lành mà người ngoài biết được là dương thiện, làm việc lành mà người ngoài không biết được là âm đức. Âm đức được phúc báo, dương thiện hưởng danh thơm. Nhưng danh thơm thường là điều đáng húy kỵ vì xưa nay biết bao nhiêu người vì háo danh thành thử bị danh làm hại, lâm vào cảnh tai họa, ngược lại những người không tội lỗi mà cứ bị thiên hạ chê oan, thì lắm lúc con cháu họ được phát đạt.
Cái lẽ âm dương như thế, phải để tâm nhiều mới hiểu hết.


Thế nào là phải và chẳng phải ?
Nước Lỗ xưa có luật người Lỗ nào chuộc được người bị bắt làm kẻ hầu hạ ở nước khác về thì được quan phủ thưởng tiền. Tử Cống(học trò đức Khổng Tử tên là Tứ) chuộc người về mà không nhận tiền thưởng.
Đức Khổng nghe biết lấy làm buồn phiền mà bảo rằng: Tứ làm việc thất sách rồi. Ôi thánh nhân xử sự nhất cử nhất động có thể cải sửa phong tục thay đổi tập quán, làm gương mẫu cho bách tính noi theo, chẳng phải cứ nhiệm ý làm những việc thích hợp với riêng mình.
Nay nước Lỗ người giàu thì ít người nghèo thì nhiều,nếu nhận thưởng cho là tham tiền là không liêm khiết còn không lãnh thưởng thì người nghèo sao có tiền tiếp tục chuộc người? Từ nay về sau chắc không ai chuộc người ở các nước chư hầu về nữa.
Tử Lộ (tên Do,học trò đức Khổng) cứu người khỏi chết đuối, được tạ ân một con trâu, Tử Lộ nhận lãnh. Khổng Tử hay chuyện hoan hỷ bảo rằng:Từ nay về sau ở nước Lỗ sẽ có nhiều người lo cấp cứu kẻ chết đuối.
Cứ lấy mắt thường tình mà xem, việc Tử Cống không nhận tiền bồi thường là cao quí, Tử Lộ nhận trâu là thấp hèn, nhưng Ðức Khổng Tử lại khen Tử Lộ mà chê Tử Cống.
Vậy nên biết người không nên chỉ nghĩ đến lợi ích trước mắt mà cần xét xem hành động đó có ảnh hưởng tệ hại gì về sau nầy không.
Không nên bàn tới lợi ích nhất thời ở đời nầy mà phải nghĩ tới tương lai xa, mà cũng chẳng nên chỉ nghĩ riêng cho cá nhân mình mà phải nghĩ cho cả thiên hạ đại chúng nữa.
Việc làm hiện nay tuy bề ngoài là thiện nhưng trong tương lai lại di hại cho người, thì thiện mà thực chẳng phải thiện.
Còn việc làm hiện thời tuy chẳng phải thiện nhưng về sau nầy lại có lợi ích cứu giúp người thì tuy ngày nay chẳng phải thiện mà chính thực là thiện vậy.
Ở đời có nhiều sự tình tương tự,chẳng hạn như tưởng là hợp lễ nghĩa, là có trung tín, từ tâm mà thực ra lại trái lễ nghĩa, không phải trung tín hay từ tâm, đều phải quyết đoán chọn lựa kỹ càng .


Thế nào là thiên lệch và chính đáng?
Xưa ông Lã Văn Ý, lúc mới từ chức tể tướng , cáo lão về quê, dân chúng 4 phương đến nghênh đón như thái sơn bắc đẩu. Nhưng có một người làng say rượu mạ lỵ ông. Lã công điềm nhiên bất động bảo gia nhân: kẻ say chẳng chấp làm gì , đóng cửa lại mặc kệ hắn.
Qua một năm sau,người đó phạm tội bị tử hình. Lã công hay biết sự tình mới hối hận rằng : giá mà ngày ấy ta bắt hắn đưa quan nha xử phạt thì hắn có thể bị phạt một tội nhẹ mà tránh khỏi phạm trọng tội về sau.
Ta lúc đó chỉ muốn giữ lòng nhân hậu tha thứ cho hắn, không ngờ hoá ra nuôi dưỡng tính ngông cuồng của hắn để phạm tội tử hình như ngày nay vậy.
Đó là một sự việc do lòng thiện hoá ra làm ác. Cho hay có khi tâm lành mà hành sự lại ác, có khi tâm ác mà hành sự lại lành.


Thế nào là đầy và vơi (bán và mãn)
Kinh dịch nói việc thiện mà không tích luỹ cho nhiều không đủ để được danh thơm tiếng tốt, việc ác mà không đọng lại nhiều chẳng đủ để mang hoạ sát thân.
Kinh thư có nói nhà Thương tội ác quá nhiều như nước vỡ bờ vì thế mà Trụ Vương bị diệt. Việc tích thiện cũng như lưu trữ vật dụng, nếu chăm chỉ cất giữ ắt sẽ đầy kho, còn biếng nhác không chịu tích lại thi vơi chứ không đầy. Chuyện làm thiện được đầy hay vơi bán hay mãn là vậy.
Xưa có một nữ thí chủ vào chùa lễ Phật, muốn cúng dường nhưng lại nghèo, trong túi chỉ còn hai đồng , đem cả ra để cúng .
Vị trụ trì đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho. Sau nữ nhân đó được tuyển vào cung, tiền tài phú quý có thừa, đến chùa lễ Phật đem cả ngàn lượng bạc cúng dường. Hoà thượng trụ trì chỉ sai đồ đệ thay mình làm lễ hồi hướng mà thôi. Nữ thí chủ nọ thấy vậy liền hỏi: Trước đây tôi chỉ cúng dường có hai đồng mà phương trượng đích thân làm lễ bái sám hồi hướng cho, nay cúng cả ngàn lượng bạc mà ngài không tự mình làm lễ là sao vậy?
Vị hoà thượng đáp: Trước kia tiền bố thí quả thật ít ỏi nhưng xuất phát từ tấm lòng thật chân thành , nếu bần tăng không đích thân làm lễ thì không đủ báo đáp được ân đức ấy. Nay tiền cúng dường tuy nhiều nhưng tâm bố thí thì không được chí thành như trước, nên bảo đồ đệ thay bần tăng làm lễ cũng đủ.
Với lòng chí thành bố thí cúng dường chỉ hai đồng mà việc thiện được viên mãn, còn bố thí cả ngàn lượng bạc mà lòng không được chí thiết thì công đức đó chỉ được bán phần mà thôi.
Chung Ly Quyền chỉ dạy cho Lã Đồng Tân cách luyện đan điểm sắt thành vàng có thể đem dùng để cứu giúp người đời.
Lã Đồng Tân hỏi rằng vàng đó sau có thể biến chất không?
Chung Ly Quyền bảo 500 năm sau vàng đó sẽ trở về nguyên bản chất là sắt, thì họ Lã nói : Như vậy sẽ gia hại cho người đời 500 năm về sau, ta chẳng học phép ấy làm gì.
Chung Ly Quyền bảo:Muốn tu tiên cần tích luỹ công đức 3000 điều, nhưng chỉ một lời của nhà ngươi nói đó cũng đủ mãn 3000 công đức rồi.
Đây lại thêm một thuyết nữa về đầy vơi hay bán mãn vậy.
Lại làm lành mà tâm không chấp trước thì mỗi việc đều được viên mãn, trái lại tuy làm suốt đời mà việc lành cũng chỉ có được một nửa.
Ví như đem của giúp người mà trong không thấy mình giúp, ngoài không thấy người nhận, trung gian không thấy vật đem giúp thì được gọi là bố thí tam luân không tịch hay nhất tâm thanh tịnh.
Bố thí như vậy, dù một lon gạo cũng có thể gây vô lượng phước, một đồng bạc có thể tiêu ngàn kiếp tội. Nhược bằng tâm khư khư chấp trước, thời tuy bố thí cả thoi vàng, phước đức cũng chỉ có được một nửa.
Ðây lại một cách xét việc lành đầy, lưng, nửa, toàn vậy.


Thế nào là đại và tiểu
Xưa Vệ Trọng Đạt, một quan chức ở Hàn lâm viện bị nhiếp hồn đưa xuống âm phủ. Diêm vương sai các phán quan trình những cuốn sổ ghi điều thiện và ác ra để xét. Nếu đem so sánh thì những sổ ghi điều ác chất đầy một đống còn sổ ghi điều thiện có mỗi quyển mỏng dính.
Diêm Vương cho đem lên bàn cân thì bên một cuốn sổ mỏng dính kia lại nặng hơn tất cả các cuốn ghi điều ác cộng lại.
Trọng Đạt nhân thế mới hỏi : Năm nay tôi mới chưa đến 40 tuổi đời mà sao tội lỗi lại có thể nhiều đến thế? Diêm Vương bảo: Mỗi một niệm ác kể là một tội không cần đợi đến lúc có thực sự phạm phải hay không.
Trọng Đạt lại hỏi trong cuốn sổ mỏng kia có ghi việc thiện gì vậy.
Diêm Vương bảo : triều đình đã từng dự tính khởi đại công tác tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, nhà ngươi dâng sớ can gián, sớ văn đó có ghi chép vào sổ vậy. Trọng Đạt thưa: Bản chức tuy có dâng sớ,nhưng triều đình không y theo lời tấu trình , thì sự việc đâu có ích gì? Thì Diêm Vương lại bảo cho hay là tuy triều đình không y theo lời tấu, nhưng một niệm thiện đó của nhà người là vì lợi ích của toàn dân muốn cho họ khỏi bị đi lao công vất vả, khỏi bị sưu cao thuế nặng, nếu mà lời tấu trình được triều đình y theo thì công đức nhà người thật vô cùng lớn lao. Cho nên nếu có chí nguyện làm việc lợi ích cho quốc gia thiên hạ , cho đại chúng thì tuy việc làm đó có nhỏ mà công đức lại lớn, còn nếu chỉ nghĩ làm lợi riêng cho thân mình thì tuy có làm nhiều mà công đức lại nhỏ vậy.


Thế nào là khó và dễ ?
Các vị tiên nho xưa có nói muốn khắc phục mình, muốn thắng được tâm mình thì nên bắt đầu từ chỗ khó khắc phục mà khởi tâm trước.
Đức Khổng Tử bàn về nhân ái cũng nói bắt đầu từ chỗ khó mà thi hành trước, tức là từ chỗ phải thắng được lòng mình vậy, bởi lẽ khó mà làm được thì dễ ắt cũng làm xong.
Chẳng hạn như ở Giang Tây có ông già họ Thư làm nghề dạy học, nhân gặp một người nghèo thiếu tiền quan, vợ người ấy sắp bị quan bắt làm tôi tớ, ông liền bỏ số tiền nhập học của học trò mà ông đã dồn được trong hai năm ra chuộc, nhờ đó vợ chồng người kia khỏi bị ly tán. Ông già họ Trương ở tỉnh Trực Lệ, nhân gặp một người bị nợ khốn, phải đem cầm vợ con. Ông liền bỏ số tiền mình để dành được trong 10 năm ra chuộc, nhờ đó vợ con người kia được an toàn. Bỏ tiền cứu người như hai trường hợp trên thật là hiếm có, ít ai làm nổi. Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang tuổi đã cao, không có con nối dõi, lân gia có người đem đứa con gái còn trẻ đến nạp cho lam thiếp , nhưng ông không nhẫn tâm thu nạp mà đem hoàn trả lại. Đó là chỗ khó có thể nhẫn mà nhẫn được.
Vậy nên phúc báo trời cho hưởng sẽ hậu.
Phàm những người có tiền tài, có quyền thế mà họ muốn làm phúc thì thực là dễ , dễ mà chẳng làm là tự huỷ hoại mình. Người nghèo hèn khốn cùng muốn làm phúc thật là khó , khó nhưng mà làm được ,đó mới thực là đáng quý vậy .


3.Tuỳ duyên hết sức tu thập thiện
Tuỳ lúc gặp duyên lành cứu giúp người, hay tuỳ hỷ công đức mà hành thiện, nếu phân biệt ra từng loại thì rất nhiều, nhưng đại khái có mười loại như sau: trợ giúp người cùng làm thiện, giữ lòng kính mến người, thành toàn việc thiện của người, khuyến khích người làm thiện, cứu người gặp nguy khốn, kiến thiết tu bổ có lợi ích lớn, xả tài làm phúc, gìn giữ bảo hộ chánh pháp, kính trọng tôn trưởng, thương tiếc mạng sống loài vật.


Thế nào là trợ giúp người cùng làm thiện?
Xưa vua Thuấn lúc chưa tức vị thấy những người đánh cá ở đầm Lôi Trạch, đều tranh chiếm chỗ nước sâu dầy nhiều cá, còn người già yếu phải tìm chỗ nước nông cạn chảy xiết ít cá mà đánh, nên có lòng trắc ẩn bất nhẫn, bèn cùng tới đánh cá. Thấy người nào tranh dành chỗ thì ông im lặng không đá động gì đến tánh xấu ấy, còn thấy người nào mà có lòng nhường chỗ thì ông hết lời khen ngợi mà theo gương đó cũng nhường chỗ cho người khác. Một năm sau những người đánh cá ở chỗ nước sâu ai cũng có lòng nhường chỗ cho nhau mà không tranh dành nữa.
Ôi vua Thuấn thực sáng suốt, há chẳng phải mất lời mà khuyên bảo giáo hoá được người sao! Tuy không dùng lời mà dùng chính bản thân mình làm gương mẫu cho người khác sửa đổi. Đây là chỗ khổ tâm và khéo dụng công của vua Thuấn vậy.
Bọn chúng ta ở thời mạt pháp nầy chẳng nên thấy mình có chỗ sở trường mà khinh khi chèn ép người, chẳng nên lấy chỗ hay giỏi của mình mà đem so sánh xét người. Ẩn ác dương thiện tức là thấy người ta dở, có lỗi lầm thì gặp riêng khuyên bảo đừng ra ngoài nói xấu làm người ta mất hết danh dự, gặp được việc làm tốt của ai thì nên ghi nhớ mà học theo đồng thời hết sức ca ngợi để mọi người cùng được biết .


Thế nào là thành toàn việc thiện của người?
Một hòn đá trong có ngọc nếu bị ném bỏ ắt sẽ vỡ tan như hòn ngói, nhưng nếu đem mài dũa chạm trổ ắt sẽ thành khuê trượng hốt ngọc. Cho nên phàm thấy người làm việc thiện hoặc thấy ý chí và tư chất của họ có thể tiến thủ thành công thì đều nên khuyến dụ trợ giúp họ; hoặc khen ngợi khích lệ hoặc gìn giữ bảo bọc họ; hoặc biện bạch hộ cho họ hay chia xẻ cùng họ nỗi oan ức bị người ghen tị mà vu hoạ phỉ báng họ, cốt sao giúp cho họ được thành công mà thôi.
Đại khái con người thường không ưa thích những người không giống như mình, chẳng hạn như ác không ưa thiện, tiểu nhân không thích quân tử. Người trong một xóm làng, thiện thì ít mà xấu ác thì nhiều, vì thế người thiện ở đời bị kém thế khó có thể tự lập được vững vàng.
Hơn nữa nguời hào kiệt ,thông minh tài cán , tính tình cương trực không trọng bề ngoài, không ưa tiểu tiết nên hay bị người ta hiểu lầm mà chỉ trích phê bình; vì thế cho nên việc thiện thường dễ bị hư hỏng mà người thiện thường bị nhạo báng , cười chê, chỉ duy có người trưởng giả nhân hậu mới hiểu rõ được sự tình mà khuông phù trợ giúp cho họ được thành công. Thành toàn cho người thì công đức thực là lớn lao vô cùng.
Thế nào là khuyến khích người làm thiện
Con người ta sinh đã sinh ra làm người, ai mà không có lương tâm.
Đường đời mênh mông mù mịt rất dễ bị sa đoạ chìm đắm vì lợi danh.
Đối với những người còn mải mê tham danh tham lợi tạo thành nghiệp ác, ta nên tìm cách cảnh tỉnh họ cho thoát khỏi sự mê hoặc, cũng giống như họ đang trải qua một giấc mộng lớn trong đêm dài mà ta giúp họ đoạn diệt , bạt trừ hết thì ân huệ đó thật vô biên vô lượng .
Hàn Dũ đời nhà Đường có nói : dùng lời thì khuyên người được một đời, làm sách thì khuyên người được trăm đời. Việc khuyên người làm lành ở đây đem so với việc cùng người làm lành ở trên có phần sút kém, song theo bệnh cho thuốc, theo thời khuyên răn vẫn thâu được hiệu quả rất nhiều. Còn như dùng chính bản thân mình hành động làm mẫu mực, làm gương cho người trông thấy để họ tự nhiên tỉnh ngộ biết được lỗi lầm mà sửa đổi thì hiệu quả cũng chẳng kém mà không để lại hình tích gì; có hai phương tiện nầy đều chẳng thể bỏ qua. Muốn giúp người, khuyên người cần phải thông minh sáng suốt , biết tuỳ thời, tuỳ người không để mất lời tức phí lời mình nói mà người không nghe , cũng không để mất người, tức là gặp người có thể khuyên cải được mà mình không hành động để lỡ mất dịp làm lành, như thế là kém hiểu biết không có trí tuệ vậy.


Thế nào là cứu người nguy cấp
Người ta ai cũng có lúc gặp phải sự tai ương hoạn nạn xảy ra. Vậy khi gặp ai lâm cảnh ách nạn hãy xem như chính mình lâm nạn mà lo vội vã cứu trừ, hoặc lấy lời biện bạch an ủi, hoặc dùng phương chước khôn ngoan giải trừ. Thôi Tử có nói: Làm ân không cần phải đợi lớn lao mới làm, chỉ cần cứu kịp người lúc cấp nạn là quý.
Ðó thật là lời của kẻ có lòng nhân vậy .
Người đời lấy cơm ăn áo mặc làm mạng sống, cho nên rất quý trọng đồng tiền, nay chúng ta có thể xả bỏ được tức là trong lòng bỏ được tính keo kiệt , ngoài mặt thì cứu giúp được người lúc cần cấp; lúc mới bắt đầu thì có vẻ miễn cưỡng mà làm, nhưng rốt cuộc xả bỏ quen rồi thì an nhiên tự tại hành động, có thể rửa sạch được lòng riêng tư , vị kỷ, trừ bỏ được tính biển lận.


Thế nào là giữ gìn bảo hộ chánh pháp?
Góp phần công đức xây dựng chùa chiền, chăm làm việc Phật sự, ấn tống kinh điển, lưu truyền sách báo bài giảng của quý thầy là bảo hộ chánh pháp .
Bản thân mình thì học ,hiểu và thực hành đúng chánh pháp rồi đem chánh pháp đó lan truyền đi cho những người khác, ấy cũng là bảo hộ chánh pháp .
Giới thiệu:

Dưới cái nhìn truyền thống cổ xưa của lịch sử Trung Quốc,có ba hình thức nghệ thuật chứa những bí ẩn chúng ta thường gặp : đĩa Bi, các đàn đá dùng để chơi âm nhạc và các Ngọc Tông . Mặc dù các hình dáng bề ngoài đã biến thể qua quá trình tiến hóa thời đại, mỗi  đã phải chịu đựng nhiều thiên niên kỷ. Nhưng hình dạng bên ngoài của chúng vẫn có hình dáng tạo ra như được thông qua các hình tượng đo đạt của những con số và có cấu trúc hình học dưới dạng cơ bản mang hình thể bản chất của vũ trụ học và hình học chưa được giải mã. Mỗi hình dạng cũng là một phần của một khung mẩu dưới dạng hình học như nhằm tiết lộ nhiều về những hệ thống của vũ trụ của người xửa để áp dụng vào các công việc như : sản xuất, nghệ thuật, cũng như khoa học ... ở trong đó . Theo hình dáng và truyền thuyết Ngọc Tông , đã được coi như những linh vật được chôn theo những người khi chết của nền văn hóa Lãng Chu cổ hay là vật thiêng dùng trong công việc việc thờ phượng "của trái đất" .Nó xuất hiện trong các kích cỡ khác nhau, và được ước tính là hơn 4.000 năm tuổi . Hàng ngàn Ngọc Tông đã được tìm thấy từ các bãi chôn trên toàn Trung Quốc. Cũng giống như các đĩa Bi và các vật có lên quan...
Do ngày xưa con người thường tạo nên các vật Toten duy trì như bày tỏ sự tôn kính đối với quá khứ . Như khái niệm của một vật cổ như Ngọc Tông .Ta có thể được phục hồi bằng cách đọc được những mã số dựa trên hình dạng vật chất tồn tại của nó ; dựa vào hình học và số lượng đo lường của nó. Đọc đúng, ai có thể đánh giá được giá trị đích thực của Ngọc Tông  không chỉ để xác nhận tính xác thực của nó mà còn thẩm định nguồn gốc của nó như là một kiệt tác của nghệ thuật. Trong nghiên cứu này, tôi đã lựa chọn một mô hình của Ngọc Tông để tin rằng để được giá trị đích thực của Ngọc Tông . Ngọc Tông có kích thước không bình thường cộng với những hoa văn trang trí  bên ngoài đầy bí ẩn ...
Tổng quan:
Hình dạng của Ngọc Tông thường khác nhau , kích thước được tạo từ ngọc khá lớn , nhưng đặc trưng chúng bao gồm các yếu tố sau: có lỗ khoan chính giữa trung tâm , hình nón, 4 cạnh góc và vòng cổ nằm ở mỗi đoạn kết thúc của tròn và vuông .

Các tạo tác khoan cắt các lăng kính :Các góc của Ngọc Tông bắt đầu ¾ inch từ hai đầu từ đỉnh, do đó ¾ của một inch của hình nón tròn trên mỗi kết thúc. Điêu khắc này của các góc tạo ra như hiệu ứng để tạo từ trường của một lực xoáy hút từ xung quanh và phía trên và dưới cùng của thành hình ống. vì sự tạo tác ngọc Tông có hình dạng nón , khối lượng và trọng lượng như là có sự quy ước . Khối lượng của nón là 584,32 inches,  hoặc £ 60,74 của độ ngoc nephrite, và trọng lượng của bốn lăng kính điêu khắc có thể tìm thấy bằng cách trừ đi trọng lượng của hình nón từ trọng lượng của toàn bộ của ngọc tông là 68,93 pound. Toàn bộ trọng lượng của Ngọc Tông hình nón bằng = trọng lượng của 4 lăng kính. VD : 68,93-60,74 = 8,19 lbs. Tất cả 4 lăng kính của £ 8,194832823 = £ 2,04870378

Bây giờ ta có thể lấy ý niệm về các chức năng và tần số của con người ví dụ như : (Các tâm sinh lý từ khái niệm)  các tần số của nhịp tim và hơi thở,hay sự tiến hóa  của hành tinh và các chu kỳ ... Các tín hiệu có mẩu số chung từ kinh nghiệm  đo sinh lý học của chúng ta với vũ trụ được  mẫu số chung của tất cả các biểu hiện tự nhiên trên là tỷ lệ vàng hoặc số Phi: 0,618.  Tôi cho rằng từ các quan sát của hiện tượng này là nguồn gốc có cơ sở qua quá trình kinh nghiệm của con người rút tỉa ra từ kinh nghiệm của hệ thống đo lường trên thế giới. nền văn hóa đa dạng được phát triển bằng những số đo dựa vào hàng đơn vị. Trong một bộ lạc , người cao tuổi đang được trưởng thành trong độ tuổi có khả năng sẽ có một nhịp tim xấp xỉ 60 chu kỳ / phút. Bội số của tiêu chuẩn này đơn giản kết hợp với chu kỳ bao trùm trên các con đường hàng năm của mặt trời lên đến trong chu kỳ thiêng liêng cổ của 360 ngày, làm phát sinh các vòng tròn 360 độ và 1.296.000 giây của vòng cung.
Một số khác đo được : 6,11876 3.586. Các con số 6.118763586, xem như là đại diện cho ngày quý cuối cùng của năm: 6 giờ 11 phút 52 giây 0,58 . Số 6,118763586 được lấy làm tiêu chuẩn của một con lắc pendulum. Có một giả thuyết để các hành vi công nhận khi một số có thay đổi hoặc che kín mặt đại diện. Tham chiếu về hình 36 và để các thread của các hiệp hội hàng đầu với số 20,6. (1.460,6 phút - 1440 phút), số 20,6 đã được bắt nguồn từ sự chuyển hóa ba chiều. Nói cách khác, số 206 là một bí số trong các công trình kiến trúc của thế giới cổ đại. Phân tích co số 206 khác nhau như: 0,206 x 3 = 0,618 - tỷ số vàng. 2,06 ÷ 2 = 1,03 là tỷ lệ của các chính để trục nhỏ của quỹ đạo của Trái đất . Số 20,6 - inch trong đơn vị đo chiều dài chung. Số 206 - khóa học trong các kim tự tháp. Số 206 - năm trong bảy giai đoạn của hành tinh Sao Thổ.( 1 = 4,854368 .)Số của 0,206 hơi thở . Số 206 inches canon là xương trong cơ thể người ...


Hình cắt Thời gian Trong ví dụ sau : Các điểm giao nhau là chính xác 4 lần chiều cao vật lý của các công rất lớn: 151,3404 inch. Quan sát từ sơ đồ sau đây, mà bốn chiều dài con lắc là illustrated. Sự tương ứng với một bội số của chiều cao của công việc. Trước tiên, một con lắc chiều cao của một VLC: 3.154896 feet ;thứ hai con lắc gấp hai lần chiều cao: 6.309792 feet. Là thứ ba ba lần tại 9,46 feet và con lắc thứ tư bốn lần chiều cao của các đầu tiên tại 12,619584 feet hoặc 151,3404 inches
The chiều cao của một trong VLC (# 1) is3.154896 feet. Một con lắc chiều dài này sẽ có một khoảng thời gian 1.96835682 giây của thời gian. 2.The kết hợp chiều cao của 2 VLC (# 2) sẽ là 6,309792 feet. Một con lắc chiều dài này sẽ có một khoảng thời gian of2.78367691 giây của thời gian. 3.The kết hợp chiều cao của 3 VLC (# 3) sẽ là 9,464688 feet. Một con lắc chiều dài này sẽ có một khoảng thời gian 3,409294019 giây của thời gian. 4.The kết hợp chiều cao của 4 VLC (# 4) sẽ là 12,619584 feet. Một con lắc chiều dài này sẽ có một khoảng thời gian 3,936713639 giây của thời gian. Do 4 chiều cao và 4 giai đoạn, chúng tôi có thể trích xuất các giá trị số sau đây của hàm lượng giác được liệt kê dưới đây: 45 º (1 / 8 các độ trong một vòng tròn), 30 º (1 / 12 mức độ trong một vòng tròn) and35.26438969 º, mức độ của các đường chéo chính của một khối lập phương. (Hình 38)  T ông trong thời gian 3 congs chiều cao như một con lắc Giai đoạn 4 congs chiều cao như một con lắc Hoặc: 3,409294019 = 0,866025408 3,936713639 0,866025408 là thecosine của 30. º  Thời kỳ of1 cong của một con lắc heightas Thời kỳ của heightsas 3 cong của một con lắc Hoặc: 1,96835682 = .577350269 3,409294019 .577350269 là thetangent của 30 do

Các đối ứng của cosin  30, º là 1 = 1,154700538. 0,866025408.  1,154700538 cũng là đăng nhập chung của một số khác, 14,27909024. 14.27909024 x 100 là gần như chính xác số lượng inch khối lượng của hình nón hình học mở rộng tới đỉnh của nó: 1427.909024 inch khối. XVI.Co-tỷ lệ, chứng cứ tự Thoạt nhìn, thư tín giữa các con số một mình có thể xuất hiện trùng hợp ngẫu nhiên. Trong một số trường hợp, tương quan ban đầu mặc dù không rõ ràng, đơn giản chỉ là các biểu thức logic của mối quan hệ vốn có trong một tác phẩm của các quan sát có thể được xem như là như vậy,..." Một lần nữa., mà không có tác phẩm, một trong những sẽ không được di chuyển để làm cho các kết nối - thiết kế của phần các cuộc gọi ra các hiệp hội. Việc thực hiện nhân chiều cao của cong rất lớn và việc tìm kiếm con lắc thời gian tương ứng có thể được tiếp tục mức 5, 6, 7 và 8 lần chiều cao của artifact.At chiều cao của năm congs, 15,77448 feet, chúng ta thấy lồng nhau, cùng một số (chia cho 10) là feet khối trong khối lập phương của vàng (trang một) mà từ đó chúng tôi khởi xướng điều tra của chúng tôi: 1,577448. Nhân con số này bằng 10.000.000, và chúng tôi nhận ra những số canon đại diện cho inch trong đường xích đạo của trái đất: 1577448000. Ở đỉnh cao của 6 VLC, 18,929376 chân, chúng tôi tìm thấy một referent cho số feet canon trong đo Trung Quốc cổ đại của Li, là 1.892,93 feet

Một lần nữa, không có lý do, nếu thời gian 5 chiều cao là chia cho khoảng thời gian 6 chiều cao, và kết quả nhân với 4, một đến tại: 4,40137965 giây = 0,912871201 4,82146984 giây 0,912871201 x 4 = 0,365148805 0,365148805 x 100 = 365.1488 05 365.15is nhận ra là một số ý định những ngày trong năm mặt trời. XVII.Art Metes Thời gian thông báo rằng các hình nón mở rộng hội tụ với hình học của các mở rộng khoan ở độ cao 77,9 inches.v Nếu chúng ta thấy rằng điểm giao nhau như một nút và sử dụng độ dài để tham khảo trong thời gian con lắc một 77,9 inch chiều cao, một sự tương ứng thú vị xảy ra. Theo công thức cho việc tìm kiếm thời gian của một pendulumw, 77,9 inch chiều cao sẽ đánh bại một khoảng thời gian of2.82 secondsx. Trong khoảng thời gian của 2,82 giây, 4,236.75 feety của đường xích đạo của trái đất sẽ xoay. Số inch vuông trên hai đầu của incept lớn hơn là 4,237994902. Đó là số lần 1.000 = 4,237.994902 là rất gần với con số trên của bàn chân xích đạo sẽ xoay trong 2,82 seconds.The khác biệt trong hai số là: 4,237.994902 4,236.755808 1 0,239094 (0,99970 sự khác biệt). Do đó, sự đồng bộ giữa một số biện pháp inch vuông, và số lượng feet quay xích đạo trong khoảng thời gian time.The có nguồn gốc từ v chiều cao 77.95482195 inch. w Công thức cho việc tìm kiếm thời gian (t) của một con lắc (l) chân dài: t = 2π (√ l) g = 32,15481179 g x2.824503872 giây Y4, 236,755808 feet .4,236.75 feet là 2,23 Li. Sự khác biệt về chiều cao của hai cong rất lớn và điểm nơi mà các hình của nó
bao quanh đường xích đạo 25.000 dặm. Các tên khác nhau / số lượng cho các đường xích đạo trong hệ thống canon dịch như sau: 25.000 dặm x5258.16 chân đến một dặm = 1314540000 feet trên đường xích đạo. 1314540000 feetx 12 inch để bàn chân = 1577448000 inches trên đường xích đạo.Con số này lớn nhất, 1577448000 đại diện cho số lượng đơn vị nhỏ nhất, - 1,577448 inch là một trong những tỷ của đường xích đạo của trái đất. Theo các biện pháp của vàng, các tiêu chí cho giá trị của vàng cũng có thể được bắt nguồn từ xích đạo, vì vậy đức hạnh của nó như là một tiêu chuẩn được liên kết với một trong những: Một foot khối vàng nặng 1.200 pounds.z Một khối inch của vàng, (1/1728th của foot khối một) weighs.69444 pounds.aa z Troy trọng lượng (12 ounces / pound) aa8.3333 ounce đến một inch khối vàng, Troy.


Thấy rằng: Có 360 độ của vòng cung trên đường xích đạo. Trong một mức độ hồ quang trên đường xích đạo, có are69.444 dặm canon của 5258,16 mỗi feet (525.816 cũng là số phút trong một năm canon của 360 ngày..) Có are69, 444,444 Canon Li trên đường xích đạo. (2.77Li đến một dặm canon: (1/2.77 = 0,360) Trong một Canon Li có are1892.9376 feet. Xem thêm: 1,577448 feet khối vàng nặng 1892,9376 pounds.1.577448 inch là một trong những tỷ của xích đạo. Ở đây chúng tôi có khối lập phương (đất) để cầu phúc của 360 độ  Rễ 7 của number1892.9376 là tỷ số giữa trọng lượng của nêfrit với trọng lượng của nước: 2.93.bb XX.The sự trong sạch của Jade"nằm lòng nhân từ ở bề mặt hào nhoáng của nó,

Độ tinh khiết của ngọc cũng có thể được chứng thực bằng cách so sánh nó để đo lường một bên ngoài của chính nó. Độ tinh khiết của ngọc bích được khẳng định bởi trọng lượng của nó tương đối so với khối lượng như của nước. Khi được tổ chức vào tài khoản, jadeite là 3,333 lần trọng lượng của cùng một khối lượng nước. Trong lặp lại bất tận của nó, con số 3,333 có hương vị của tuyệt đối. Jadeite là ẩn dụ của "thiên đường" trong đó tất cả các hình thức có thể được coi là hoàn hảo XXI. Nêfrit. Ngược lại với jadeite, nêfrit là ẩn dụ ít hạn chế bởi các chuyên chế của các số hoàn hảo Nó ít nặng hơn jadeite nào được nêu ra tương tự như các giác quan. Các. tỷ lệ trọng lượng của nó để khởi hành nước từ 3,333 lý tưởng của jadeite, và phạm vi bất cứ nơi nào 2,91-2,95 ở mật độ. tỷ lệ này được tìm thấy giấu trong số đó bắt đầu bài tập này: 1892,9376. Rễ 7 của number1892.9376 là tỷ lệ của trọng lượng của nêfrit với trọng lượng của nước: 2.93.ee Một lần nữa nhớ lại rằng một nửa góc hội tụ của hình học của hình nón của cong.1.134904
 
Hoàn thiện hình thức chỉ định của nó bằng cách mở rộng các hình nón, cong bối cảnh mở rộng để bao gồm thời gian và vĩ độ. Các công rất lớn về mặt địa lý / hình học địa chỉ một khu vực gần Thượng Hải. Các cong rất lớn có thể được giống như một mảnh của một câu đố phức tạp đo lường ba chiều. Bất kỳ khía cạnh một trong những mảnh một trận đấu hoặc có một hiệp hội để một đoạn thông tin nhưng trong một thể loại khác nhau hoặc dimension.For ví dụ: số lượng vàng với khối lượng được biết đến, như khối lập phương một trận đấu trọng lượng số lượng mà khi nhân với một tỷ đại diện cho chu vi của trái đất. Trong trường hợp của các incept lớn, nếu khối lượng của nó được cân như jadeite, nó sẽ nặng 1/100th số lượng vàng mà chúng ta bắt đầu. Từ hình thức này đơn giản, trong thời gian chuyển bằng nghi lễ và tùy chỉnh, chúng tôi đã lấy sợi chỉ của một truyền thống đó đã bị mất những truyền thống nhiều millennia.The là tùy chỉnh sâu hơn, phong cách hay dòng dõi. Nó bắt nguồn từ một định cơ bản

Tuesday, September 21, 2010

Trống đồng Đông Sơn

Trống đồng Đông Sơn là tên một loại trống tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn của người Việt cổ. Nhiều chiếc trống loại này với quy mô đồ sộ, hình dáng cân đối, hài hoà đã thể hiện một trình độ rất cao về kỹ năng và nghệ thuật, đặc biệt là những hoa văn phong phú được khắc họa, miêu tả chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ dựng nước mà người ta vẫn cho là chìm trong đám mây mù của truyền thuyết Việt Nam.
Đặc điểm :
Trên mặt trống xuất hiện 4 khối tượng cóc và vành hoa văn hình chim cách điệu bao quanh ngôi sao. Ngôi sao phần nhiều có 12 cánh, vành chim có từ 4 đến 10 con. Trên mặt trống có 6 dạng văn chủ yếu sau: hình tam giác lồng nhau, vòng tròn đồng tâm chấm giữa và có tiếp tuyến, vạch ngắn song song, chữ M lồng nhau, đường gấp khúc liên tiếp tạo thành những ô hình quả trám và hoa văn có hình trâm.Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp phát triển. Việc phát hiện ra những lưỡi cày đồng và những hình bò được khắc trên thân trống chứng tỏ thời kỳ này đã biết sử dụng sức kéo động vật vào canh tác nông nghiệp. Ngoài ra, các nghề đánh cá, săn bắn, chăn nuôi gia súc và sản xuất thủ công cũng phát triển trong thời kỳ này.


Phần lớn những nơi phát hiện có trống đồng phân bố dọc theo triền những con sông lớn ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trống có thể đã được phân phối bằng đường thuỷ. Ngoài ra, trong xã hội Lạc Việt còn có tồn tại sự bất bình đẳng về tài sản. Điều này được phản ánh rõ ràng trong sự phân bố những hiện vật tuỳ táng ở các ngôi mộ giàu nghèo thuộc thời đại đồ đồng.


Nghệ thuật tạo hình
Nghệ thuật trống đồng khá độc đáo, đặc trưng bởi kỹ thuật khắc chạm trên khuôn tạo ra những hình ảnh khắc chìm chủ yếu trên mặt trống, còn trên thân trống thì là hình khắc hơi nổi. Nghệ nhân đã xây dựng hình ảnh trong những bố cục tròn trên mặt trống và ô chữ nhật trên thân trống, bên trong loại bố cục này thì hình ảnh được sắp xếp rất cân đối. Hình ảnh con người luôn được dĩen tả theo tư thế động: múa, giã gạo, đánh trống, bơi chải…Về mặt bố cục, tất cả người, động vật đều diễu hành quanh ngôi sao giữa mặt trống. Đặc biệt, phần tạo hình ở đây hơi giống kiểu tạo hình Ai Cập. Ví dụ: tốp người múa trên mặt trống có ngực hướng thẳng về phía khán giả, chân và đầu theo lối nhìn nghiêng. Còn trong hình chim bay thì thân cánh và đuôi được tả theo hình nhìn từ trên xuống, còn đầu thì theo lối nhìn nghiêng.


Những kiến thức khoa học
Kỹ thuật đúc: Trống đồng là một hiện vật khá lớn. Chiếc trống cỡ lớn có đường kính mặt trống xấp xỉ 90 cm, chiều cao trên dưới 60 cm, nặng gần 100 kg, hình thể phức tạp: tang trống phần trên phình ra hình nón cụt, giữa thắt lại hình trụ tròn, phần chân loe ra hình phễu. Để đúc một vật như vậy không hề đơn giản. Những nghiên cứu đã chỉ ra rằng trống được đúc bằng khuôn hai mảnh, rìa mặt trống còn để lại những dấu vết cách đều, đó là dấu vết con kê để căn đều chiều dày thành trống trên khuôn đúc. Để đúc thành công như vậy thì người nghệ nhân phải đạt được hàng loạt các yêu cầu về kỹ thuật như phải có một nhiệt độ cao để nung chảy hợp kim đồng, phải tìm được vật liệu chịu lửa để làm khuôn đúc, phải nắm vững được tính năng hóa lý của mỗi kim loại trong hợp kim đồng, đặc biệt là phải có kỹ thuật đúc với tay nghề thành thạo. Quan sát hệ thống hoa văn dày đặc và tinh xảo trên trống Ngọc Lũ 1 và trống Hoàng Hạ có thể kết luận được xã hội Lạc Việt có những người thợ đúc lành nghề.
Số lượng những cánh sao, động vật, những hình thuyền trong vành hầu hết đều là số chẵn. Điều này chứng tỏ người Lạc Việt đã rất chú ý đến việc tính đếm. Trong số những số lượng cánh sao nổi bật lên là con số 12 (chiếm 46,1% tổng số). Số này liên quan đến số lượng tháng trong một năm.Các nhóm thuyền khắc trên trống thể hiện sự phát triển về kỹ thuật quân sự của thời này. Trong số 436 người được khắc trên các trống có 175 người cầm vũ khí (40,1%). Các loại vũ khí gồm: giáo, rìu, cung, dao găm và mộc.


Trống đồng Đông Sơn với xã hội Hùng Vương


Những trống đồng Đông Sơn sớm nhất đã xuất hiện vào những thế kỷ 6 TCN và thế kỷ 7 TCN trên địa bàn miền Bắc Việt Nam ngày nay, thuộc thời kỳ Hùng Vương. Nhưng lịch sử của thời đại các vua Hùng còn chưa được giới sử học tranh luận ngã ngũ vì chưa được tìm được “dấu ấn” của vua Hùng. Những hình khắc trên trống đồng Đông Sơn giờ đây có thể nói lên phần nào xã hội thời bấy giờ. Theo “truyền thuyết trăm trứng” và mo “Đẻ đất đẻ nước“, 50 người con về đồng bằng trở thành tổ tiên người Việt, 47 người di cư lên miền núi trở thành tổ tiên các dân tộc miền núi, còn lại 3 người từ những trứng nở đầu tiên tên là Tá Cần, Tá Kài và cô nàng Kịt, ba người sống chung với nhau…Về sau Tá Cần lên làm vua và đã từng lấy Bà Chu Bà Chuông làm vợ sinh ra 18 người con: 9 trai và 9 gái. Họ trở thành lang và chia nhau đi coi các bản mường. Con số 18 khá quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước người Lạc Việt, giống như số 60 của người Babilon ở Lưỡng Hà hay số 20 của người Maya cổ. Nghiên cứu số lượng chim trên các vành chim bay (chim vật tổ của người Lạc Việt) chúng ta nhận thấy phần lớn mỗi vành đều có 18 chim. Điều đặc biệt là trên mặt trống Sông Đà, người nghệ nhân do lúc đầu sơ ý đã chia nhầm thành 17 cung bằng nhau, khi khắc đến hình chim thứ 16 thì chỉ còn một đoạn, do đó đã phải cố khắc 2 con chim vào vành cuối này cho đủ số lượng là 18 con. Có thể nghĩ rằng con số 18 đời Hùng Vương là 18 dòng họ đầu tiên, kết hợp với nhau trong liên minh bộ lạc Văn Lang.


Một quyển lịch cổ xưa
Vì các lý lẽ trên, vị tù trưởng phải có một quyển lịch năm, tính theo tuần trăng, theo mùa màng khí tiết, đặt ngay cạnh mình, để dân hỏi gì là tra ngay ra được câu trả lời.Lịch ấy vạch trên đồ đất nung thì dể vỡ, dễ mòn, không truyền được nhiều đời. Vạch trên mặt trống đồng thì thật là tiện, gọn, đúng với vật biểu tượng uy quyền của mình cùng cả dòng tù trưởng.
Vậy những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ là một quyển Âm Lịch, có tháng đủ, tháng thiếu, có đêm trăng tròn, trăng khuyết, hay không có trăng, lại có cả năm nhuận và chu kỳ 18 năm để tính tháng dư, cũng như có những chỉ vạch về 4 mùa trong năm. Nếu vậy thì không những không có gì là mê tính ( thờ chim, vật tổ mặt trời, mặt trăng, ca vũ để cầu thần linh,…) mà có vẻ như người xưa còn có tinh thần thực tế, hợp lý, khoa học, chính xác, chưa biết chừng người đời nay còn phải giật mình là đằng khác nữa.


Cách đếm ngày và đêm
Năm âm lịch theo kinh nghiệm nhiều đời nghiên cứu mặt trăng, vẫn được tính là 354 ngày ( dương lịch tính 365 ngày ) chia ra cho 12 tháng, thì mỗi tháng 29 ngày gọi là tháng thiếu và có dư 6 ngày để thêm vào cho 6 tháng khác gọi là tháng đủ. Vậy một năm âm lịch có 6 tháng 29 ngày và 6 tháng 30 ngày.Cứ năm năm lại có hai năm mỗi năm dư 1 tháng, gọi là năm dư tháng nhuận.Và cứ sau năm thứ 18, qua năm thứ 19 gọi là 1 chương thì lại không tính là năm dư, chỉ có 12 tháng thôi, kể như là năm thường vậy.Do đó, vòng hình vẽ 18 con chim mỏ dài cánh lớn ở ngoài cùng là hình vẽ một chu kỳ 18 năm, mỗi con chim ấy là 1Vòng hình vẽ thứ nhất ở trong cùng gần trung tâm có 6 người trang phục kỳ dị mỗi bên vòng tròn đối nhau, đã không phải người Giao Chỉ ăn bận như thế, mà đó là những vị thần cai quản mỗi vị 1 tháng, trong 6 tháng đầu ở 1 bên và 6 tháng cuối mỗi năm. Thêm có một hình người thấp bé hơn cạnh 6 người ở một bên, đó là để ghi tháng nhuận của năm dư.Vòng hình vẽ thứ nhì ở giữa, có 6 con gà, 10 con hươu, rồi lại 8 con gà, 10 con hươu, ấy là hình vẽ những con vật tương trưng. Gà chỉ đi ăn vào ban ngày, Hươu đi ăn vào đêm trăng sáng. Có 6 đêm vào đầu tháng từ 1 đến 6 không trăng; và 8 đêm vào cuối tháng từ 22 đến 30 cũng không trăng. Những đêm ấy không đi săn thú được. Và sau đó, khi có trăng thì có thể tổ chức đi săn đêm.


Theo kinh nghiệm cũ truyền mãi tới ngày nay, có 6 đêm đầu tháng không trăng, người ta tính :Mồng 1 lưỡi trâu - Mồng 2 lưỡi gà - Mồng 3 lưỡi liềm - Mồng 4 câu liêm - Mồng 5 liềm vật - Mồng 6 phạt cỏ - Mồng 7 tỏ trăng, là bắt đầu tuần trăng sáng.Tuần trăng sáng kia dài đến đúng đêm 10 rằm trăng náu (đáo : đủ ). Mười sáu trăng treo ( chiêu : sáng sủa ). Mười bảy trải giường chiếu ( rủ giường chiếu ). Mười tám giương cạm ( trương : xếp đặt, chẩm : cái gối ). Mười chín bịn rịn (bị : áo ngủ đắp trùm, rị : tối ). Hai mươi giấc tốt ( ngủ ngon ). Hai mốt nữa đêm ( mới có trăng ).Từ 22 lại vào tuần không trăng, ( 22 – 30 ) nên không cần tính nữa.
Cái hoa 14 cánh ở trung tâm không phải là hình mặt trăng hay mặt trời của bộ lạc thờ những tinh thể ấy, đó là hình vẽ để đếm đêm và ngày.Đêm là khoảng cách nằm giữa mỗi 2 ngày, trong cả tháng 29 ngày. Tổng số khoảng cách ấy là 28 nếu là tháng thiếu, 29 nếu là tháng đủ.
Cái hoa 14 cánh, đếm hết vòng thứ nhất từ 1 đến đêm trăng tròn (15, đêm rằm ) và đếm vòng thứ 2 nữa, từ 16, thì lại trở về đêm không trăng (đêm )


Bắt đầu đếm từ đâu ?
Tìm ra đầu mối là vấn đề quan trọng. Chỉ có 1 điểm trong cả vòng tròn để dùng khởi đầu cuộc đếm. Ấy là điểm chỉ vào đêm 30 không trăng.:Ta biết rằng vào đầu tháng có 6 đêm không trăng.Vậy điểm khởi đầu để xem lịch phải nằm ở đuôi con gà cuối cùng trong dòng 6 con.
Thực hành việc ghi lịch và xem lịch :
Người ta có thể dùng một chất màu (son phấn, mực đen) mà bôi lên hình của mỗi cánh hoa khi có 1 đêm qua. Chẳng hạn đến cánh thứ tư mà vòng ngoài chưa có gì cả thì đó là đêm mồng 4 tháng giêng năm đầu của chu kỳ. Nếu vòng ngoài đã có 3 hình người tượng trưng cho tháng và vòng ngoài cũng đã có 6 con chim bị bôi rồi thì đó là đêm mồng 4 tháng tư năm thứ 7 của chu kỳ . Người tù trưởng có thể lấy năm đầu của mình chấp chưởng quyền lãnh đạo làm năm đầu chu kỳ. Khi nhìn vào lịch thì biết rõ mình đã cai trị được bao nhiêu năm.
Con vật nhỏ theo sau mỗi con CHIM THỜI GIAN của một năm là để dành ghi năm nhuận 13 tháng. Cứ 5 năm thì bôi màu đánh dấu vào hai con vật nhỏ ấy, để hết tháng sáu nữa mới bôi vào tháng 6.( Việc làm có vẻ mất công. Như ngày nay, mỗi ngày người ta cũng phải bóc một tờ lịch, và nếu lịch tháng thì mỗi ngày cũng phải lấy bút đánh dấu để hết tháng thì xé một tờ ).


Quyển Âm Lịch dùng cho nhiều năm :
Như vậy, ta thấy quyển lịch này dùng được cho nhiều năm và chúng tôi nghĩ rằng ngay cả bây giờ vẫn dùng được, để có thể mệnh danh là Nguyệt Lịch Vạn Niên.Làm sao biết chính xác năm nào nhuận vào tháng nào ?
Điều ấy chưa có tài liệu nào khác để hiểu thêm. Có lẽ người xưa đã dùng lối chiêm nghiệm về khí tiết trong nhiều năm, nhiều chu kỳ, thấy có diễn biến trở lại như cũ mà bồi bổ dần cho sự hiểu biết chăng ?Biết đúng tháng nào đủ, thiếu , hoặc hai ba tháng đủ liền, hai ba tháng thiếu liền, và nhất định vào đâu trong năm, tất cũng do chiêm nghiệm.Hoặc còn một dụng cụ để ghi nhớ nào khác, trên một mặt trống khác, hay một vật nào khác mà ngày nay chưa tìm ra ?Điều ta có thể biết chắc được là người xưa đã quan sát tinh tế rồi chiêm nghiệm trước, sau mới tính toán, để lại chiêm nghiệm nữa, mà kiểm điểm những tính toán kia.Sách Xuân Thu Tả Truyện có chép rằng : mùa đông tháng 12 (Năm Ai Công thứ XII) có châu chấu phá hoại. Quý Tôn hỏi Khổng Tử, ông đáp : “Tôi nghe rằng: chiều mà không thấy sao hoả nữa thì côn trùng ẩn phục hết. Nay sao hoả vẫn còn thấy chuyển vận về phía Tây, chắc các nhà làm lịch đã lầm”. Ý nói theo lịch Trung Hoa là tháng chạp. Đáng lý ra thì sao hoả không còn thấy được vào buổi chiều. Sâu bọ phải ẩn phục hết rồi vì lạnh. Thế mà nay sao hoả vẫn còn thấy hiện, côn trùng còn phá phách, như vậy các nhà làm lịch Trung Hoa thời ấy đã lầm, đáng lẽ phải có tháng nhuận nữa mới phải.
Đó chính là thể thức và phương pháp làm lịch chung cho cả mọi giống dân trên thế giới, mà quyển lịch trên mặt trống đồng Ngọc Lũ đã có sẵn những gì để phòng hờ chỗ ghi năm dư tháng nhuận, thì trước khi nó hiện ra là một bảng lập thành, dòng dõi các tù trưởng Giao Chỉ không phải chỉ chừng năm ba thế hệ. Chúng ta có thể đoán không sợ sai lầm là ít nhất cũng phải mươi cái chu kỳ 180 năm (tức ít nhất là 1800 năm cho đến khi cái trống Ngọc Lũ đầu tiên được đúc), còn hơn nữa thì không dám biết .


Những kết quả chiêm tinh lịch số riêng :
Vâng, riêng của dòng tù trưởng Giao Chỉ. Đây là những bằng chứng hùng hồn nhất cho biết đích xác hồi đầu lịch sử, giống dân Giao Chỉ ở gốc tổ sống mà chẳng dính dáng gì về văn hoá với giống người Trung Hoa.
Người Trung Hoa cho rằng nền thiên văn của họ bắt đầu với Phục Hi, khoảng 2850 năm trước kỷ nguyên Tây lịch. Đến đời Hoàng Đế ( 2657 – 2557 ) ta đã thấy họ dùng cách tính năm tháng theo chu kỳ lục thập hoa giáp ( chu kỳ 12 năm ). Hán thư Nghệ Văn Chí có ghi : “Hoàng Đế ngũ gia lịch tam thập quyển”. Cháu ba đời Hoàng Đế là Chuyên Húc (2545 – 2485 ) rất có nhiều về thiên văn. Trúc Thư Ký Niên viết : Sau khi lên ngôi được 13 năm, vua bắt đầu làm lịch số, và tính toán vị trí các sao trên trời. Xuân Thu Tả Truyện cũng ghi nhận rằng đời vua Chuyên Húc đã có những quan coi về lịch, về nhị phân (xuân phân, thu phân) và nhị chí (đông chí, hạ chí) và đoán được các ngày đầu mùa ( Xuân Thu Chiêu Công năm XVII ). Đời vua Nghiêu ( 2356-2255) đã biết vị trí nhị thập bát tú, nhật nguyệt ngũ tinh, đã định năm là 365 ngày, đã biết đặt tháng nhuận.