春 日 謁 昭 陵 - 陳 仁 宗
貔 虎 千 門 肅,
衣 冠 七 品 通。
白 頭 軍 士 在,
往 往 說 元 豐。
Xuân nhật yết
Chiêu Lăng - Trần Nhân Tông
Tì hổ thiên môn túc,
Y quan
thất phẩm thông.
Bạch đầu quân sĩ lại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong.
(Quân thị vệ như hổ, trước nghìn cửa đứng nghiêm túc,
Áo mũ các
quan đủ cả bảy phẩm.
Người lính già đầu bạc còn đến ngày nay,
Thường kể
lại chuyện đời Nguyên Phong.)
NGÀY XUÂN GHÉ THĂM CHIÊU LĂNG
Nghìn cửa thị vệ đứng nghiêm trông,
Bảy phẩm cân đai rợp sân
rồng .
Người lính bạc đầu còn nhắc mãi,
Chuyện cũ oai hùng thủa Nguyên
Phong .
Badmonk - Tâm Nhiên
Chiêu Lăng: Lăng
Thái Thượng hoàng Trần Thái Tông
Chuyện Nguyên Phong: Chuyện đời Trần Thái
Tông khởi nghiệp gian nan vất vả.
春 景
- 陳 仁 宗
楊 柳 花 深 鳥 語 遲
畫 堂 檐 影 暮 雲 飛
客 來 不 問 人 間 事
共 倚
欄 杆 看 翠 微
XUÂN CẢNH - Trần Nhân Tông
Dương
liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiền mẫn mộ vân phi
Khách lai
bất vấn nhân gian sự
Cộng ỷ lan can khán thúy vi
CẢNH
XUÂN
Trong hàng dương liễu chim hót ca
Chiều tà mây dải bóng
lầu hoa
Khách đến việc đời xin gác bỏ
Tựa cửa mơ màng ngắm núi xa
Badmonk - Tâm Nhiên.
Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót
Dưới bóng thềm ngôi nhà
chạm khắc, mây chiều bay.
Khách đến chơi không hỏi việc đời,
Cùng đứng
tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời.
Trần Nhân Tông
(1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua
cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi
15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông là người đã thành lập
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự. Ông
được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt
Nam. Ngày 22 tháng Mười âm lịch năm Mậu Dần (tức 8 tháng 11 năm 1278), ông được
vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14
năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi
Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).
Bấy giờ nhà
Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc
bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong
triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả
quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285
đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan. Ngoài ra,
quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân
chinh đi đánh dẹp.
Nhà vua từng nói: " Các người chớ quên , chính
nước lớn mới làm những điều bậy bạ , trái đạo . Vì rằng họ cho mình cái quyền
nói một đường làm một nẻo . Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu . Chớ
coi thường chuyện vụn vặt nảy ra trên biên ải . Các việc trên , khiến ta nghĩ
tới chuyện khác lớn hơn . Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước . Cứ luôn
luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp . Không thôn tính được ta , thì gậm nhấm
ta . Họ gậm nhấm đất đai của ta , lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ
đại bàng thành cái tổ chim chích . Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn : " Một
tấc đất của Tiền nhân để lại , cũng không được để lọt vào tay kẻ khác " . Ta
cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu "
Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu
hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và
thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay
Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông
được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này. Ông qua đời ngày 3 tháng
Một âm lịch năm Mậu Thân (tức 16 tháng 12 năm 1308), được an táng ở lăng Quy
Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông,
tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần
Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.
Tác phẩm của Trần Nhân Tông có:Thiền
lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền)Tăng
già toái sự (Chuyện vụn vặt của sư tăng)Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà
đá) Đại hương hải ấn thi tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm)Trần Nhân
Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông)Trung Hưng thực lục (2 quyển): chép việc
bình quân Nguyên xâm lược. Các phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại 25 bài thơ
chép trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục - Theo Wikipedia
山 居 漫 興 - 阮 攸
南 去 長 安 千 里 餘,
群 峰 深 處 野 人 居。
柴 門 晝 靜 山 雲 閉,
藥 圃 春 寒 隴 竹 疏。
一 片 鄉 心 蟾 影 下,
經 年 別 淚 雁 聲 初。
故 鄉 弟 妹 音 耗 絕,
不 見 平 安 一 紙 書。
Sơn cư mạn hứng - Nguyễn Du(1802 - 1887)
Nam khứ Trường
An thiên lý dư,
Quần phong thâm xứ dã nhân cư.
Sài môn trú tĩnh sơn vân
bế,
Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ.
Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ,
Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ.
Cố hương đệ muội âm hao tuyệt,
Bất
kiến bình an nhất chỉ thư.
Ở NÚI CẢM HỨNG
Về nam ngàn dặm cách Trường An,
Nhà cỏ u
cư giữa non ngàn.
Mây khóa cổng thiền yên bóng núi,
Viện thuốc tre
thưa độ xuân tàn.
Sáng trăng chạnh nhớ thương làng cũ,
Tiếng nhạn khơi
dòng lệ chứa chan .
Quê nhà tin tức anh em vắng,
Không biết mọi người
được bình an.
Badmonk - Tâm Nhiên
Cách Trường An nghìn dặm về
phía nam,
Có một người quê mùa ở trong núi sâu.
Ban ngày yên tĩnh, mây
núi che kín cổng tre.
Mùa xuân lạnh, hành trúc quanh vườn thuốc trông thưa
thớt.
Thơ thẩn dưới bóng trăng, lòng nhớ quê hương
Tiếng nhạn đầu mùa
khơi thêm dòng lệ biệt ly từ bao năm.
Em trai em gái ở nơi quê nhà, bấy lâu
bặt hắn tin tức,
Không nhận được lá thư nào nói cho biết có bình yên hay
không?
久別 離 - 李白
別 來 幾 春 未 還 家,
玉 窗 五 見 櫻 桃 花。
況 有 錦 字
書,
開 緘 使 人 嗟。
至 此 腸 斷 彼 心 絕。
雲 鬟 綠 鬢 罷 梳 結,
愁 如 回 飆 亂 白 雪。
去 年 寄 書 報 陽 台,
今 年 寄 書 重 相 催。
東 風 兮 東 風,
為 我 吹 行 雲 使 西 來。
待 來 竟 不 來,
落 花 寂 寂 委 青 苔。
Cửu biệt ly - Lý Bạch
Biệt ly kỷ xuân vị hoàn gia,
Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa.
Huống hữu cẩm tự thư,
Khai giam sử nhân ta.
Chí thử trường đoạn
bỉ tâm tuyệt.
Vân hoàn lục mấn bãi sơ kết,
Sầu như hồi phiêu loạn bạch
tuyết.
Khứ niên ký thư báo Dương Đài,
Kim niên ký thư trùng tương
thôi.
Đông phong hề đông phong,
Vị ngã xuy hành vân sử tây lai.
Đãi lai cánh bất lai!
Lạc hoa tịch tịch uỷ thương đài.
SẦU
LY BIỆT
Biệt ly từ độ mấy xuân,
Bâng khuâng hoa rụng năm lần
bên song.
Mở tờ thư gấm nao lòng,
Đọc lên lệ úa đôi dòng sầu rơi .
Tóc mây biếng chải rối bời,
Buồn trông gió thổi cuối trời tuyết bay.
Dương Đài cách trở tầm tay,
Thư đi rồi lại đêm ngày ngóng trông.
Gió
đông ơi hỡi gió đông,
Cho ta làm áng mây hồng về tây.
Đợi người nào thấy
ai đây ?
Hoa rơi lặng lẽ phủ đầy thềm rêu...
Badmonk - Tâm
Nhiên Từ ngày chàng ra đi đã mấy xuân không
về,
Trước cửa ngọc đã năm lần thấy hoa anh đào nở.
Huống lại có thư chữ
gấm,
Mở ra khiến lòng thêm đau xót.
Tóc mây quên bện, tóc mai biếng thắt
tết,
Buồn như cơn gió thổi tung tuyết trắng.
Năm trước đã gữi thư nhắn
chốn Dương Đài,
Năm nay lại gữi thư giục giã,
Gió đông chừ gió đông
Hãy vì ta thổi mây bay về tây,
Đợi hoài mà vẫn chưa thấy người về,
Hoa rơi lặng lẽ phủ rêu xanh...