Nếp áo tiểu thừa trên tượng vua Trần Nhân Tông
Phát hiện vết nếp áo tiểu thừa trên tượng vua Trần Nhân Tông
Tiểu thừa còn được gọi là Theraveda (Phật giáo nguyên thuỷ) hay Hinayana, là phật giáo hiện tại ở phần lớn các nước ĐNA : Miến điện, Thái lan, Lào, Cam pu chia, Nam bộ (VN)...Người Kinh theo phật giáo Đại thừa (Mahayana) giống như ở TQ, Triều tiên, Nhật Bản .
Đạo Phật vào ĐNA qua đường biển bắt đầu từ khoảng đầu công lịch, tức là khoảng 500 năm sau khi Phật Thích Ca nhập Niết bàn. Phật giáo theo chân các thương nhân Ấn độ trên đường đi tìm vàng và hương liệu. Các thương nhân Ấn thường theo đạo Phật, vì nếu họ theo đạo Bà la môn một cách " thuần thành " thì không được phép rời Ấn độ, còn trong đạo Phật không có điều cấm kỵ ấy. Cũng có người cho rằng phật giáo xuất dương vì chính sách truyền đạo Phật của vua Ashoka (tiếng việt vua A dục), lại có cả thuyết các đoàn truyên giáo Ấn đã từng đặt bảo tháp, hay cột kinh ở Đồ Sơn (Hải phòng). Khi đạo phật xuất dương như thế thì đó là đạo phật đương đại ở Ấn độ. Lúc đó đạo phật thịnh hành ở Ấn là đạo phật Đại thừa, thậm chí còn là dòng cuối cùng của Đại thừa là Mật tông (Tantrisme) chứ không phải là phật giáo Nguyên thuỷ (theraveda). Như vậy việc phật giáo du nhập vào ĐNA đi theo quá trình ngược lại của phát triển phật giáo ở Ấn độ. Nó bắt đầu bằng Mật tông (Tantrisme), rồi Đại thừa (Mahayana), và cuối cùng là Tiểu thừa (Theraveda). Trong khi theo lịch sử phật giáo thì Theraveda có trước, rồi tới Mahayana cuối cùng là Tantrisme.
Trong quá trình giao lưu văn hoá với các sắc dân bản địa ở ĐNA (người Môn, người Khơ me, người Mã lai, người Piu, người Chàm, người Kinh ,..) văn hoá Ấn độ thâm nhập vào vùng đất này. Ngoại trừ Giao chỉ, tức là miền Bắc và bắc trung bộ VN đã có một hệ thống hành chính kiểu TQ (lúc này là thời Bắc thuộc), các tộc người khác đều chịu ảnh hưởng văn hoá Ấn độ mà lập nước. Nhà nước kiểu Ấn độ đầu tiên được thành lập ở ĐNA còn được ghi lại trong sử (qua các sử gia TQ) là nhà nước Lâm Ấp mà trung tâm của nó là tỉnh Hà tĩnh ngay nay.
Trong các nhà nước này, chính quyền được cấu thành theo kiểu vua Thần (Devaraja), xã hội có đẳng cấp, theo kiểu Bà la môn. Tông phái Bà la môn thịnh hành nhất là phái thờ thần Si va, mà biểu tưởng là cái linga, như người ta còn thấy ở di tích Mỹ sơn, ở các tháp Chàm, hay ở các di tích khác ở các nước ĐNA..Bên cạnh đó tồn tại Phật giáo Đại thừa. Ở vùng đất mà ta quan tâm vì có quan hệ mật thiết với VN là Cam pu chia, Cham pa... thì đạo phật Đại thừa hưng thịnh nhất vào thời vua Jayavarman VII thế kỷ XII. Lúc này phật giáo Đại thừa là quốc đạo ở Cam pu chia (lúc đó là Phù Nam), và cũng đồng thời là quốc đạo ở Cham pa, vì Cham pa bị nội thuộc vào Phù Nam khoảng 20 năm trong thời kỳ này. Sau khi Jayavarman mất thì ở Cam pu chia, quyền lực lại trở về với tông phái Si va của đạo Bà la môn.
Vào thời điểm vua Trần Nhân Tông sang tham Cham pa , rồi hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chàm lúc này là Chế Mân ở nước này trong cung đình thì theo đạo Bà la môn phái Si va, còn dân chúng nói chung theo đạo Phật đại thừa. Dấu vết của đạo phật đại thừa còn để lại đến ngày nay qua các bức tượng Quan Âm (Avalokitesvara) hay tượng Bát nhã ba la mật đa (Prajnaparamita). Một trong hai biểu tượng lớn nhất của phật giáo Đại thừa. Tượng Bát nhã Ba la mật đa thường là tượng có hình phụ nữ. Loại tượng này không tồn tại ở Đại Việt cũng như là ở các nước Đông Á theo phật giáo Đại thừa khác như Nhật, Triều tiên, Trung quốc. Còn tượng Quan Âm thường được tạc với hình đàn ông hay thuộc dạng , chứ không phải là " phật Bà " như ta quan niệm. Trong bảo tàng châu Á ở Paris, khách viếng thăm có thể chiêm ngưỡng những bức tượng này. Tôi không rõ trong bảo tàng Chàm ở Đà nẵng, có loại tượng này không ?. Tóm lại không có phật giáo Tiểu thừa ở Cham pa, và nói rộng ra ở ĐNA vào thời kỳ đó để vua Trần mang về Đại Việt. Có lẽ vua Trần Nhân Tông chưa bao giờ được nhìn thấy tận mắt văn hoá phật giáo Tiểu thừa như thế nào. Ngược lại về mặt lý thuyết kinh kệ, thì đó là điều không phải xa lạ với bất cứ một người nghiên cứu phật giáo đại thừa nào, bởi vì trong các tông phái Đại thừa (nếu tôi không nhầm thì có 9 tông), trong đó có 3 tông là Tiểu thừa. 3 tông Tiểu thừa này cũng thịnh hành ở TQ vào khoảng thế kỷ thứ IV đời nhà Tuỳ, trước khi tịnh diệt. Cho đến nay, khi người ta học theo phật giáo Đại thừa, cũng vẫn có phần nói tới 3 tông này.
Vậy cái áo trên tượng vua Trần Nhân Tông để hở vai phải có ý nghĩa gì ? Nó chỉ có ý nghĩa là y phục của tăng ni theo phật giáo Đại thừa theo kiểu ĐNA ,không chịu ảnh hưởng của y phục TQ mà thôi. Nó cũng chứng tỏ, phật giáo vào VN theo nhiều nguồn, có nguồn trực tiếp từ ĐNA lên có nguồn từ TQ xuống. Người ta cũng có thể suy rộng ra là y phục của phật giáo VN thời nhà Trần là y phục phật giáo như ở các nước ĐNA, được truyền trực tiếp từ Ấn độ qua. Trong khi kinh kệ, vì dùng chữ Nho nên lại nhập từ TQ qua. Vì thế văn hoá VN mới được gọi là IndoChine (tức là ảnh hưởng của cả Ấn độ lẫn TQ, không kể phần bản địa). Nó cũng nói lên một điều là VN và TQ có nhiều điều giống nhau, nhưng không phải vì lý do VN học TQ, mà vì cả VN lẫn TQ đều học chung từ một nguồn, thậm chí cái nguồn ấy vào VN trước rồi mới sang TQ, mà phật giáo Đại thừa là một ví dụ.
Cách để hở vai phải cũng có ở trong phật giáo TQ. Dấu vết của nó chính là cái vuông vải mầu vàng lớn, được vắt lên vai trong y phục của các hoà thượng TQ, mà người ta có thể thấy ngay cả trong những phim " mì ăn liền " về " chưởng " về " công phu " của Hồng Kông . Có điều khác là họ không khoác trực tiếp lên người, có lẽ vì đó là y phục của vùng Trung Á, hay có thể vì lạnh quá mà người ta không thể mặc thế được. Nhiều khi cái khăn vắt vai này còn có mô típ ca rô, bởi vì về nguyên thuỷ, đó là một trong tam cụ của chư tăng, và nó phải là vải chắp vá từ những miếng vải hoả thiêu người chết ghép lại.
Phật giáo Tiểu thừa thì vào ĐNA khá muộn, từ thế kỷ XIV, từ miền Nam Ấn (bang tamil nadu ở Ấn độ hiện tại). Tức là lúc mà bắc Ấn độ đã bị người Hồi giáo xâm lược và thống trị một phần. Đạo Phật ở Bắc Ấn và lưu vực sông Hằng đã bị huỷ diệt. Đại học phật giáo nổi tiếng Nalanda không còn nữa.
Những nhà nước theo phật giáo Tiểu thừa đầu tiên ở ĐNA là ở Hạ lưu sông Mê nam của người Môn (đất Thái lan ngày nay), hay ở vùng đồng bằng ven biển Miến điện. Sau này người Thái xâm lược Phù nam (Cam pu chia hiện tại), làm tan rã nhà nước này, cùng đồng thời truyền phật giáo Tiểu thừa vào. Nhưng phật giáo Tiểu thừa không bao giờ ra tới Cham pa. Ở nước này, sau phật giáo Đại thừa tuyệt diệt, người Chàm đã theo hồi giáo, cũng là do thương nhân Ấn truyền đạo chứ không phải trực tiếp từ người Ả rập. Dấu vết của nó là tông Hồi giáo bani (nghĩa là hồi giáo cổ),hiện chỉ có trong tín ngưỡng của người Việt gốc chàm ở Phan rang, Phan Thiết, theo đó người ta vẫn theo mẫu hệ (dù hồi giáo là phụ hệ triệt để), và còn giữ được nhiều tín ngưỡng từ Ấn độ giáo. Ngược lại người việt gốc Chàm ở An giang hay Tây ninh, hay người Chàm ở Cam pu chia (tỉnh Công pông chàm) thì theo hồi giáo đợt sau (nhập từ Java vào), triệt để hơn.
Tóm lại về mặt lịch sử, vua Trần Nhân Tông không thể nào tiếp xúc với một văn hoá phật giáo Tiểu thừa được, mà nó chỉ là phật giáo Đại thừa không bị văn hoá Trung quốc bản địa hoá mà thôi. Tức là ngài đã được mục kích một " original indian version of buddhism Mahayana ", và cái nếp áo trên tượng của ngài là một minh chứng cho việc này.
No comments:
Post a Comment