Monday, July 30, 2012

Bạch Ðằng giang - Trần Minh Tông




白 藤 江 - 陳 明 宗

挽 雲 劍 戟 碧 巑 岏,
海 唇 吞 潮 捲 雪 瀾。
綴 地 花 鈿 春 雨 霽,
撼 天 松 籟 晚 霜 寒。
山 河 今 古 雙 開 眼,
胡 越 贏 輸 一 倚 欄。
江 水 渟 涵 斜 日 影,
錯 疑 戰 血 未 曾 乾。

Bạch Ðằng giang - Trần Minh Tông

Vãn vân kiếm kích bích toàn ngoan,
Hải thẩn thôn triều quyển tuyết lan.
Xuyết địa hoa điền xuân vũ tễ,
Hám thiên tùng lại vãn sương hàn.
Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
Giang thuỷ đình hàm tà nhật ảnh,
Thác nghi chiến huyết vị tằng can.

SÔNG BẠCH ĐẰNG

Núi dựng như gươm chạm mây thành,
Triều dâng sóng bạc phủ mờ xanh .
Mưa ướt hoa vàng phô mặt đất,
Rung chuyển thông chiều sương quẩn quanh .
Non sông gấm vóc hai lần rạng,
Thắng thua Hồ-Việt giờ thoãng nhanh .
Sông chiều ráng đỏ như màu máu,
Ngỡ xác quân thù vẫn còn tanh .


Badmonk - Tâm Nhiên


Núi biếc cao vút, tua tủa như gươm giáo kéo lấy tầng mây,
Hải thẩn nuốt thuỷ triều cuộn làn sóng bạc.
Hoa vàng điểm tô mặt đất lúc mưa xuân vừa tạnh,
Tiếng sáo thông rung chuyển trời khi sương chiều lạnh lẽo.
non sông này xưa nay đã hai lần mở mắt,
Cuộc hơn thua giữa Hồ và Việt thoàng qua như một lúc dựa vào lan can.
Nước sông chan chứa rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối,
Còn ngỡ là máu chiến trường thuở trước chưa từng khô.

Thursday, July 5, 2012

Sơn phòng mạn hứng Trần Nhân Tông

Quote Quote Modify Modify Remove Remove



山 房 漫 兴 - 陳 仁 宗

是 非 念 逐 朝 花 落,
名 利 心 隨 夜 雨 寒,
花 盡 雨 晴 山 寂 寂,
一 聲 啼 鳥 又 春 殘,

Sơn phòng mạn hứng - Trần Nhân Tông

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc,
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn.
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch,
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.

CẢM HỨNG Ở AM NÚI

Thị phi rụng cùng hoa buổi sáng,
Lợi danh lòng lạnh tựa mưa đêm .
Hoa tàn mưa tạnh rừng u tịch,
Một tiếng chim kêu xuân vội sang .

Badmonk - Tâm Nhiên



Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm,
Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm.
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch,
Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn.



Trần Nhân Tông (1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam.
Ngày 22 tháng Mười âm lịch năm Mậu Dần (tức 8 tháng 11 năm 1278), ông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi, tức vua Trần Nhân Tông. Ông ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnh Thái Bình).

Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng cả, nên từ năm 1285 đến 1287, Nguyên Mông hai lần sang đánh Đại Việt nhưng bị đập tan. Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp.

Nhà vua từng nói: ‎" Các người chớ quên , chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ , trái đạo . Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo . Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu . Chớ coi thường chuyện vụn vặt nảy ra trên biên ải . Các việc trên , khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn . Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước . Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp . Không thôn tính được ta , thì gậm nhấm ta . Họ gậm nhấm đất đai của ta , lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích . Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn : " Một tấc đất của Tiền nhân để lại , cũng không được để lọt vào tay kẻ khác " . Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu "

Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này. Ông qua đời ngày 3 tháng Một âm lịch năm Mậu Thân (tức 16 tháng 12 năm 1308), được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.

Tác phẩm của Trần Nhân Tông có:Thiền lâm thiết chủy ngữ lục (Ngữ lục về trùng độc thiết chủy trong rừng Thiền)Tăng già toái sự (Chuyện vụn vặt của sư tăng)Thạch thất mỵ ngữ (Lời nói mê trong nhà đá) Đại hương hải ấn thi tập (Tập thơ ấn chứng của biển lớn nước thơm)Trần Nhân Tông thi tập (Tập thơ Trần Nhân Tông)Trung Hưng thực lục (2 quyển): chép việc bình quân Nguyên xâm lược. Các phẩm trên đều đã thất lạc, chỉ còn lại 25 bài thơ chép trong Việt âm thi tập và Toàn Việt thi lục - Theo Wikipedia