Ôi em bềnh bồng da tựa tuyết Thân ôm lá thắm viết dòng thơ Trả em một bát vô tình lệ Xuống tóc gặp nhau hận chẳng chờ...
Saturday, October 30, 2010
Đề cúc hoa - Hoàng Sào
题菊花 黄巢
飒飒西风满院栽,
蕊寒香冷蝶难来。
他年我若为青帝,
报与桃花一处开。
Đề cúc hoa - Hoàng Sào
Táp táp tây phong mãn viên tài
Nhị hàn hương lãnh điệp nan lai
Tha niên ngã nhược vi Thanh đế
Báo dữ đào hoa nhất xứ khai
Viết cho hoa cúc
Ào ạt vườn tây gió thổi qua,
Hương tàn, nhuỵ héo, bướm ong xa.
Năm sau ví phỏng ta làm chúa,
Lệnh xuống phù đồ nở đầy hoa.
Badmonk
Bán kiên cung kiếm nhứt trạo giang sơn. Nguyên do hai câu thơ:
Bán kiên cung kiếm bằng thiên tuấn,
Nhứt trạo giang sơn tận địa duy.
Nửa vai cung kiếm tận trời cao,
Non sông khắp cõi xông pha một chèo.
Đây là hai câu thơ khí phách của Hoàng Sào, tướng giặc nổi danh đời nhà Đường.
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong. Phiên trấn thì nắm quyền thưởng phạt sinh sát nhân dân trong tay; hoạn quan thì thiện tiện phế lập vua chúa. Chính cuộc đã nguy như thế làm cho mối loạn trong dân gian ngày càng tăng gia nguy ngập. Những bần cố nông phải bỏ trốn lưu lạc. Một số có ít đất ruộng bị kiêm tính cũng bỏ quê quán mà thành lưu vong, hoặc tụ họp làm trộm cướp, hoặc làm điền hộ ở các trang viên. Tài chính bị kiệt quệ, kho tàng nhà nước hư không, triều đình phải đánh thuế nặng. Vừa binh tai, lại xảy ra thủy tai và hạn tai luôn năm làm cho nhân dân càng lâm vào tình trạng cực kỳ khốn khổ. Lúc bấy giờ ở Tào Châu, làng Xích Tướng có một người tên Hoàng Sào tự Cự Thiên, vốn con của một nhà bán muối. Sào rất thông minh, văn võ đều giỏi nhưng vẻ người rất xấu. Năm Càng Phủ thứ ba (876) đời vua Hy Tông, Hoàng Sào đi thi đỗ được Võ cử Trạng nguyên. Vua thấy hình dung "cổ quái" của Sào nên không dùng, đuổi Sào đi.
Hoàng Sào ra khỏi triều môn trở về, giữa đường ghé quán nghỉ, lòng đầy căm tức. Sào nghĩ thầm: - Khi đăng bảng mở khoa thi thì nói chọn người văn chương và võ nghệ mà thôi, chớ không thấy nói chọn người mặt mày đẹp đẽ. Nếu ta dè hôn quân muốn lấy diện mạo chọn người thì ta có đi thi làm chi cho uổng công.
Tức khí quá, Hoàng Sào lấy bút mực viết một bài thơ trên vách quán rồi bỏ ra đi:
Lược thao như mỗ đáng phong hầu,
Mắt thịt hôn quân dễ biết đâu?
Nếu được đôi ba ngàn tử đệ,
Đoạt thâu thiên hạ bốn trăm châu.
Tào Châu Hoàng Sào tự Cự Thiên đề.
Quân tuần thành đến quán trông thấy bài thơ liền chép lại dâng lên vua. Nhà vua tức giận truyền họa đồ hình Hoàng Sào và ra lịnh tập nã. Sào hay tin, không dám đi đường lớn nữa mà phải lặn lội trong rừng núi để về quê.
Có truyện chép rằng: một hôm Hoàng Sào ghé vào chùa nghỉ, có tiên cho mượn gươm báu. Sào định thử gươm mới bảo các sãi trong chùa tìm nơi ẩn trốn kẻo bị gươm báu chém nhằm. Đến giờ ngọ, Hoàng Sào ra đứng giữa trời, nhìn ngay mặt trời khấn rằng: - Tôi là Hoàng Sào tự Cự Thiên, nghĩ vì đời vua này vô đạo, chẳng kể hiền tài, cứ nghe lời gian nịnh cho nên đạo tặc phong khởi, hào kiệt ly tâm, thiên hạ nhiễu nhương, trăm họ khổ thống. Vậy tôi muốn ra sức trừ loài gian nịnh, cứu nạn cho sinh linh, đoạt lấy xã tắc, sửa trị ngôi trời. Nay tôi muốn thử sức gươm linh xin hoàng thiên giúp sức nếu vạn sự kết quả như lòng tôi muốn thì xui tôi chém một gươm cho tốt. Đoạn, cầm gươm ra khỏi cổng chùa, nhìn chung quanh không thấy ai cả. Thấy một cây đại thọ ở bên đường, Sào liền đưa gươm lên chém phạt ngang một gươm. Cây đại thọ đứt hai đổ xuống, nhưng có làn máu đỏ vọt ra. Sào cực kỳ ngạc nhiên nhìn kỹ lại là ông sãi cả ở chùa. Thì ra vì ông sãi cả nghe lời Hoàng Sào bảo mọi người trong chùa phải tìm chỗ ẩn trốn khi Sào thử gươm linh, nhưng ông không biết chỗ nào trốn cho kín. Ông lấy làm lo sợ quá, nhìn thấy một cây đại thọ có cái bộng to nên chun vào đó, ý định toàn thân... không ngờ lại không toàn!
Hoàng Sào đau lòng than thở, đoạn quảy gói mang gươm lên đường, thẳng lên Thái Hành Sơn chiêu binh mãi mã. Non một năm, Sào chiêu mộ được trăm muôn binh thêm một số tướng tá văn võ kiêm toàn: Châu Ôn, Thượng Nhượng, Liễu Ngạn Chương, Liễu Ngạn Tùy, Các Tùng Châu, Đặng Thiên Vương, Mạnh Tuyết Hải. Hoàng Sào đặt Thượng Nhượng làm quân sư và các tướng toàn Tổng binh. Thế lực rất mạnh. Hoàng Sào tự hiệu là Xung thiên đại tướng quân, đem hơn 10 vạn quân đoạt được nhiều châu khác và vượt qua sông Dương Tử, xuống cướp miền Giang Nam, ra phía đông đến Chiết Giang, lại đánh Phúc Châu, Kiến Ninh, rồi thẳng đường xuống đoạt Quảng Châu. Ở đây, Hoàng Sào giết hại rất nhiều nhân dân trong thành thị, cùng 20 vạn người ngoại quốc buôn bán, gồm những giáo đồ Hồi Hồi, Cơ Đốc, Bái Hỏa và người Do Thái, người Hy Lạp. Sau vì miền nam có bịnh dịch, Hoàng Sào kéo quân lên bắc. Năm 880, vây hãm Đông Đô rồi chiếm lấy Trường An, cướp phá và giết chóc những người quý tộc, quan lại và phú hào, số không kể xiết. Vua Hy Tông bấy giờ phải bỏ hoàng thành chạy vào đất Thục. Hoàng Sào tự xưng là Đại Tề hoàng đế. Thật là thỏa chí bình sinh.
Hoàng Sào trước muốn cứu muôn dân ra khỏi cảnh lầm than tang tóc, nhưng đến khi thực hành thì lại chẳng cứu muôn dân mà còn gây thảm họa chết chóc cho nhân dân nhiều thêm nữa. Tướng Châu Ôn là bộ hạ của Hoàng Sào lại đầu hàng quan triều. Trong số hơn 50 vạn quân của Sào, một số chán ghét Sào bỏ chạy theo Châu Ôn. Còn vua Hy Tông sau khi trốn chạy vào Tứ Xuyên, nhờ người Tây Đột Quyết là Lý Khắc Dụng đem quân cứu viện. Triều Đường được trung hưng. Năm 884, Hoàng Sào bị Lý Khắc Dụng đánh bại rồi bị tên bộ hạ ám hại tại Biện Châu. Có sách chép là Hoàng Sào đánh trận bị thương nặng trở về tư dinh, đâm cổ tự tử.
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn tả khí phách của Từ Hải có câu:
Giang hồ quen thú vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
Hai câu này thoát ý câu thơ của Hoàng Sào như trên:
Bán kiên cung kiếm bằng thiên túng,
Nhứt trạo giang sơn tận địa duy.
Cũng trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh", đoạn Thúy Kiều khuyên Từ Hải hàng triều đình, có câu:
Ngẫm từ khởi việc binh đao,
Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu,
Làm chi để tiếng về sau?
Ngàn năm ai có khen đâu Hoàng Sào?
Hoàng Sào là do điển tích trên .Kiều đem Hoàng Sào ra để thuyết Từ Hải biết là Từ có tài giỏi dũng lược như Hoàng Sào chăng nữa, thì cũng chỉ lưu lại đời sau cái tiếng làm giặc mà thôi.
Nhưng ở đời từ xưa đến nay, được làm vua thua làm giặc là một lẽ thường.
Không chỉ có tài võ, Hoàng Sào còn là một nhà thơ. Bài thơ nổi tiếng nhất của ông còn lưu lại trong tập thơ Đường chính là bài "Đề cúc hoa"
Friday, October 29, 2010
Đề Trương Thị Ẩn Cư (2) - Đỗ Phủ
題 張 氏 隱 居 杜甫
之 子 時 相 見
邀 人 晚 興 留
濟 潭 鱣 發 發
春 草 鹿 呦 呦
杜 酒 偏 勞 勸
張 梨 不 外 求
前 村 山 路 險
歸 醉 每 無 憂
Đề Trương Thị Ẩn Cư (2) - Đỗ Phủ
Chi tử thì tương kiến
Yêu nhân vãn hứng lưu
Tế đầm chiên phát phát
Xuân thảo lộc ao ao
Đỗ tửu thiên lao khuyến
Trương lê bất ngoại cầu
Tiền thôn sơn lộ hiểm
Quy tuý mỗi vô ưu .
Đề Thơ Nơi Ở Ẩn Của Họ Trương (Bài hai)
Gặp nhau tay bắt mặt mừng,
Tâm tình chưa trọn, chiều rừng giữ chân.
Nai vui về gặp cỏ xuân,
Đầm sau cá vẩy đớp nhầm sao bay.
Bác Đỗ nâng chén trao tay,
Bác Trương gọt táo mắt say ép mời.
Giữa khuya về lại chân đồi,
Mới hay khi xỉn thấy đời nhẹ tênh...
Trúc chi từ - Lưu Vũ Tích
劉禹錫 竹枝詞
楊柳青青江水平, 聞郎江上唱歌聲。
東邊日出西邊雨, 道是無晴還有晴。
Trúc chi từ - Lưu Vũ Tích
Dương liễu thanh thanh giang thủy bình
Văn lang giang thượng xướng ca thanh
Đông biên nhật xuất tây biên vũ
Đạo thị vô tình hoàn hữu tình.
Khúc ca Trúc-chi
Xanh xanh dương liễu đôi bờ,
Hò ơ... Anh chống thuyền chờ em qua...
Tây mưa, đông nắng chan hòa,
Trong vô tình ấy hóa ra hữu tình...
Tuesday, October 26, 2010
Cung Trung Đề - Lý Hoàn
Cung Trung Đề - Lý Hoàn
Liễn lộ sinh thu thảo
Thượng Lâm hoa mãn chi
Bằng cao hà hạn ý
Vô phục thị thần tri
Thơ đề trong cung
Lối củ lấp đầy bóng cỏ lau,
Thượng Lâm hoa hé nụ vườn sau.
Mực tâm, thơ ý cao vô tận,
Mấy kẻ công hầu hiểu gì đâu.
Sunday, October 24, 2010
Đáp Liên Hoa kỹ nữ - Trần Đào
答蓮花妓 陳陶
近來詩思清于水,
老去風情薄似雲。
已向升天得門戶,
錦衾深愧卓文君。
Đáp Liên Hoa kỹ nữ - Trần Đào
Cận lai thi tứ thanh vu thủy ,
Lão khứ phong tình bạc tự vân .
Dĩ hướng thăng thiên đắc môn hộ ,
Cẩm khâm thâm quý Trác Văn Quân .
Trả lời kỹ nữ Liên Hoa
Dạo đây thơ ý trong hơn nước
Tuổi xế chiều tình nhẹ mây xuân
Hướng lên cao mộng không trọn vẹn
Gấm thêu nào thẹn áo Văn Quân ...
Sơn trung vấn đáp - Lý Bạch
山中問答 李白
問余何意棲碧山
笑而不答心自閑
桃花流水杳然去
別有天地非人間
Sơn trung vấn đáp - Lý Bạch
Vấn dư hà ý thê bích sơn
Tiếu nhi bất đáp tâm tự nhàn
Đào hoa lưu thủy yểu nhiên khứ
Biệt hữu thiên địa phi nhân gian.
Đáp lời hỏi trong núi
Hỏi ta sao ở núi xanh ?
Chỉ cười không nói, lòng thanh thản nhàn.
Đào rơi nước cuốn nhẹ nhàng,
Rằng đây khác chốn nhân gian bão bùng...
Tống Biệt - Vương Duy
王維 送別
下馬飲君酒, 問君何所之?
君言不得意, 歸臥南山陲。
但去莫復聞, 白雲無盡時。
Tống Biệt - Vương Duy
Há mã ẩm quân tửu
Vấn quân hà sở chi?
Quân ngôn bất đắc ý
Quy ngọa Nam sơn thùy
Đãn khứ mạc phục vấn
Bạch vân vô tận thì
Tiễn biệt
Xuống ngựa mời nhau rựu
Hỏi anh định về đâu
Anh bảo đời thật chán
Thôi về ẩn núi Nam
Bạn ơi đừng hỏi nữa
Mây trắng chẵng ngừng bay....
Xuống ngựa ly bôi chén trao tay
Đường xa vạn nẽo nào anh hay
Đời muôn giai điệu buồn, vui, lạ...
Xin trả , quay về ẩn núi Nam.
Ta đi xin bạn đừng hỏi nữa
Mây trắng muôn trùng bay lại bay...
Saturday, October 23, 2010
Sơn Cư - Lư Luân
山居 盧綸
登登山路行時盡
決決溪泉到處聞
風動葉聲山犬吠
一家松火隔秋雲
Sơn Cư - Lư Luân
Đăng đăng sơn lộ hành thời tận
Quyết quyết khê tuyền đáo xứ văn
Phong động diệp thanh sơn khuyển phệ
Nhất gia tùng hỏa cách thu vân
Nhà trên núi
Loanh quanh núi chạm mây trời,
Song trùng tiếng suối cuộn nơi thác mù.
Chó tru vì lá phong rung,
Bếp thông tỏa khói quyện cùng mây qua ...
Bản Sự Thi - Tô Mạn Thù (Su Manshu)
本事詩 Saburo
春雨樓頭尺八簫
何時歸看浙江潮
芒鞋破缽無人識
踏過櫻花第幾橋
Bản Sự Thi - Tô Mạn Thù (Su Manshu)
Xuân vũ lâu đầu xích bát tiêu
Hà thời qui khán Chiết Giang Triều
Mang hài phá bát vô nhân thức
Ðạp quá anh hoa đệ kỷ kiều .
Truyện thơ ( Trích đoạn )
Tiêu vọng, quê người, mưa lệ sa ...
Chiết Giang quê củ mộng nhạt nhòa .
Chân qua tám biển cầu nhân thế
Lạc bước vô tình dẫm lên hoa ...
Quê người
Tiêu gọi hồn quê
Chiết Giang cố quận
Ngày về còn đâu ...
Anh đào mấy độ phai mầu
Giày rơm giẫm cánh,
Dưới cầu thiều quang .
Badmonk
Tô Mạn Thù cha là Hoa ở Nhật , mẹ ông cũng là người Nhật. Ông sinh ra ở Nhật, trở về Trung Quốc năm 10 tuổi, rồi lại quay trở lại Nhật học. Năm 20 tuổi ông thế phát làm tăng nhân, lãng du thiên hạ.
Đa phần thơ của Tô Mạn Thù là thơ thất tuyệt, "Bản sự thi" là tên chung cho một nhóm những bài thơ tự sự của ông, chứ không phải tên của một bài duy nhất, phong cách chịu ảnh hưởng của Lý Thương Ẩn và Cung Tự Trân. Ngoài thơ, Tô Mạn Thù còn viết tiểu thuyết, trong đó nổi tiếng nhất là Đoạn hồng linh nhạn ký đã được Bùi Giáng dịch ra tiếng Việt. (Theo VH.Org )
Friday, October 22, 2010
Ngải ngậm hương trầm
| |
Vietsciences-Võ Quang Yến |
|
Wednesday, October 20, 2010
Một chiếc mặt nạ hiếm gặp của người La Mã
Một chiếc mặt nạ hiếm gặp của người La Mã, được tìm thấy ở miền tây bắc nước Anh, đã được bán với giá 3,6 triệu USD trong một cuộc đấu giá ở London, gấp hơn 10 lần so với dự đoán.
Một người săn tìm kim loại quý đã đào được chiếc mặt nạ – được cho là có niên đại từ cuối thế kỷ thứ 1 đầu thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên – tại Crosby Garrett, gần Kirkby Stephen hồi tháng 5.
Đây là chiếc mặt nạ được chế tạo chi tiết và còn nguyên vẹn. Cổ vật mô phỏng một gương mặt hoàn chỉnh với đầy đủ các bộ phậm như mắt, mũi, miệng và thậm chí cả lông mày. Trên đầu mô phỏng mái tóc xoăn và chóp có hình một con sư tử.
Nhà đấu giá Christie’s miêu tả chiếc mặt nạ là “mẫu vật đặc biệt trong số các tác phẩm nghệ thuật bằng kim loại của người La Mã thời đỉnh cao” và là “phát hiện để đời của một người săn tìm kim loại quý”.
Giới chuyên gia cho rằng các binh sĩ La Mã đã sử dụng những chiếc mặt nạ như vậy trong các sự kiện thể thao.
Ban đầu, chiếc mặt nạ được dự đoán có giá khoảng 480.000 USD. Tuy nhiên, giá đã vọt lên 3,6 triệu USD trong cuộc đấu giá tại nhà đấu giá Christie’s ở London hôm qua. Chủ nhân mới của nó không được tiết lộ.
Trước cuộc đấu giá, bảo tàng Tullie House tại Carlisle, gần nơi chiếc mặt nạ được tìm thấy, đã phát động một chiến dịch gây quỹ nhằm mua lại cổ vật để trưng bày. Tuy nhiên, bảo tàng này đã không thành công.
Hilary Wade, giám đốc bảo tàng, nói: “Tất nhiên là chúng tôi thấy thất vọng khi không thành công lần này nhưng chúng tôi sẽ không từ bỏ tham vọng”.
Chiếc mặt nạ trên là một trong số 3 chiếc có gương mặt hoàn chỉnh.từng được phát hiện tại Anh. Chiếc đầu tiên được tìm thấy năm 1796 và hiện đang nằm trong Bảo tàng Anh ở London. Chiếc kia được tìm thấy vào khoảng năm 1905 và đang được lưu giữ tại Bảo tàng cổ vật ở Edinburgh, Scotland.
Tuesday, October 19, 2010
Sự thật về trầm hương và kỳ nam
PGS Đinh Xuân Bá dự Hội nghị về trầm, kỳ ở Thụy Sỹ. |
Trước những tin đồn liên tục về việc trúng đậm trầm hương, kỳ nam, bán được hàng chục tỷ đồng, PGS Đinh Xuân Bá (nguyên giảng viên ĐH Bách Khoa, Chủ tịch HĐQT Công ty SECOIN) khẳng định: Trầm, kỳ không giá trị như mọi người vẫn tưởng tượng.
Phó giáo sư (PGS) Đinh Xuân Bá là người nghiên cứu rất kỹ về trầm hương, kỳ nam. Ông là người đã và đang triển khai nghiên cứu hàng loạt đề tài khoa học về trầm, kỳ cấp Nhà nước. Ông cũng là người đi tiên phong trong việc trồng cây dó bầu lấy trầm và hiện tại ông đang phát triển trang trại rộng hàng trăm hécta, toàn giống cây dó bầu cho chất lượng trầm tốt ở Hương Sơn (Hà Tĩnh).
Trầm hương là gì?
Những nhà nghiên cứu, sản xuất trầm, kỳ ở nước ngoài thì không lạ gì cái tên Đinh Xuân Bá. Ông rất ít xuất hiện trước báo giới, vả lại hầu như ông chỉ làm việc với giới hiểu biết về trầm, kỳ ở nước ngoài mà thôi.
Ông là người Việt Nam đầu tiên lập trang web giới thiệu về trầm, kỳ và những sáng chế của ông trong việc chiết xuất, sử dụng loại hương liệu quý này từ khi Việt còn chưa có Internet. Trang web của ông được lập ở nước ngoài và toàn bộ thông tin đều bằng tiếng Anh, vì thế, người nước ngoài biết về ông nhiều hơn người Việt cũng dễ hiểu.
Những cuộc hội thảo lớn về trầm, kỳ trên thế giới người ta đều mời ông với tư cách nhà khoa học, và ông cũng đã được đến hầu hết những nơi sản xuất, nghiên cứu, chế biến trầm, kỳ cũng như những thị trường tiêu thụ lớn nên không gì có thể phủ nhận khả năng và sự hiểu biết sâu sắc của vị PGS này về trầm, kỳ.
Trong căn phòng nhỏ, bừa bộn những loại máy móc chiết xuất, chế biến trầm, kỳ, rất nhiều khúc gỗ có chứa tinh dầu trầm bày biện trên mặt tủ, cùng vô vàn chai lọ chứa tinh dầu trầm. Ngôi nhà 59 Hàng Chuối, Hà Nội, lúc nào cũng thoảng mùi trầm.
PGS Đinh Xuân Bá tỏ ra bức xúc khi rất nhiều báo chí liên tục viết về trầm, kỳ, kể cả dẫn lời phát biểu của những nhà khoa học, song đều thiếu chính xác, cảm tính, nghe theo lời đồn của cả trong nước và trên các trang web quốc tế.
Một khối trầm hương bày bán ở Thái Lan. |
Theo PGS Đinh Xuân Bá, có tới 28 loài thuộc chi Aquilaria có thể cho trầm. Những loài này có mặt ở 15 nước trên thế giới. Riêng Việt có 6 loài. Aquilaria Crassna là loài quý nhất trong nhóm, chỉ có mặt ở 4 nước, trong đó Việt có nhiều nhất và quý nhất. Sở dĩ loài Crassna quý nhất là vì nó sản sinh ra trầm tốt, mà người đời vẫn gọi bằng cái tên khác là kỳ nam.
Những loại cây dó bầu cho trầm, kỳ mọc tập trung ở những vùng núi hướng ra phía có gió biển, do vậy trầm xuất hiện nhiều ở Đông Trường Sơn hơn là Tây Trường Sơn. Trầm, kỳ là sản vật của vùng Bình Trị Thiên, Phú Yên, Khánh Hòa, Lâm Đồng và đảo Phú Quốc cũng có.
Hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng trầm, kỳ hình thành bởi cây dó tiết ra nhựa nhằm tiêu diệt côn trùng và các loại nấm để bảo vệ vết thương. Quá trình này diễn ra rất chậm, từ 50 năm đến hàng thế kỷ. Một số ý kiến khác thì cho rằng, do thân cây dó bị bọng, loài ong, kiến làm tổ ở đó, tha mật về ăn. Hương mật ngấm vào thịt cây dó lâu ngày rồi hòa trộn với nhựa cây mà kết thành trầm hương, kỳ nam.
Lại có ý kiến cho rằng, trầm kỳ là sản phẩm đặc biệt được hình thành từ lõi cây dó bầu do việc tích tụ tinh dầu. Việc cây dó tạo trầm như thế nào vẫn là điều bí hiểm, cần có quá trình nghiên cứu lâu dài để khám phá, tuy nhiên, theo PGS Đinh Xuân Bá, qua nghiên cứu tài liệu từ các nhà khoa học đầu ngành về trầm, kỳ ở nước ngoài thì nhiều khả năng trầm là một bệnh phẩm hay sản phẩm của sự nhiễm bệnh, nói cách khác, nó là sản phẩm của phản ứng tự vệ của cây chống lại sự nhiễm bệnh.
Sự hình thành trầm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: loài cây dó, thổ nhưỡng và thảm thực vật nơi cây dó sống, cây bị thương tích do sâu bọ đục lỗ hoặc do con người gây ra như khoan lỗ, cây bị nhiễm vi khuẩn, nấm mốc hoặc các loài ký sinh trên gỗ và đặc biệt là năng lực tạo ra phản ứng miễn dịch của cây dó...
Chính vì có nhiều yếu tố tác động mới khiến cây dó hình thành trầm hương trong điều kiện tự nhiên, không phải cây dó nào cũng cho trầm, kỳ mà hàng trăm, hàng ngàn cây mới có một cây cho trầm mà thôi.
Chính việc nắm được quá trình hình thành trầm, kỳ mà ở một số nước như Thái Lan , Malaysia , Ấn Độ, Nhật Bản... người ta trồng cây dó bầu rồi đục thân, tiêm vi trùng, nấm vào để tạo trầm nhanh chóng (phương pháp này được ông Bá gọi là kích cảm).
Thậm chí, các nhà khoa học Nhật Bản tại Trường đại học Kyoto đã dùng Methyl Jasmonate và Jasmonic acid (chất giúp tăng cường năng lực tự vệ của cây) tác động lên các tế bào của cây dó theo phương pháp nuôi cấy treo có thể tạo ra các chất chính của trầm hương chỉ trong vòng 7 ngày.
Theo những người chuyên “ngậm ngải tìm trầm” thì giả thuyết về khả năng tự vệ của cây dó sinh ra trầm sát với thực tế hơn cả. Bởi vì, kinh nghiệm đi rừng tìm trầm cho thấy, những cây dó bầu nào cao 30-50m, lá đã vàng và nhỏ dần, thân cây có nhiều u bướu như những tổ kiến hoặc gốc có gò mối đóng thì cây dó đó có thể cho trầm hoặc kỳ. Khi gặp những cây dó như thế thì phải hạ cây, trốc cả rễ và xả nát ra tìm vì trầm có thể kết ở rễ, gốc, thân, thậm chí ở tận ngọn cây.
Cũng theo những người tìm trầm, thời gian gần đây dễ kiếm được trầm hơn trước kia vì trong thời gian chiến tranh, những mảnh bom đạn đã ghim vào thân cây dó và trong quá trình kích thích dài tới vài chục năm, đến nay cây dó đã cho nhựa trầm.
Qua đây cũng xin giải thích để bạn đọc hiểu nội dung của từ “ngậm ngải tìm trầm” mà báo chí cũng như giới tìm kiếm, buôn bán trầm hương thường dùng.
Cây dó là loài thường mọc trong rừng sâu, núi cao, những nơi hiểm trở và xen lẫn với những loài cây khác nên rất khó tìm. Hơn nữa, hàng trăm, hàng ngàn cây dó mới có một cây cho trầm nên người ta phải luồn rừng hết ngày này tháng khác trong rừng để tìm kiếm.
Quá trình đi rừng dài ngày như thế, lương thực mang theo không thể đáp ứng được nhu cầu, nên khi hết lương thực, người đi rừng phải đào củ ngải, một loại riềng dại, có vị thơm dịu để ngậm, làm cho ruột đỡ cồn cào trong quá trình tìm đường về.
Vì cuộc hành trình dài ngày, vất vả nên khi trở về, người tìm trầm thường hốc hác, râu tóc xồm xoàm, quần áo rách mướp, trông chẳng khác gì người rừng, nên người đời thường tưởng tượng ra cảnh ngậm ngải tìm trầm lâu ngày sẽ biến thành người rừng. Cụm từ “ngậm ngải tìm trầm” chỉ sự vất vả, nhọc nhằn của những người đi khai thác trầm trong rừng sâu.
Quá trình tìm trầm cũng được huyễn hoặc hóa và được giới tìm trầm rất tin. Người ta tin rằng, chỉ có người sống lương thiện thì mới gặp được Thiên Y Ana, là hóa thân của trầm, kỳ. Chính vì vậy, trước khi xuất hành vào rừng, người ta phải ăn chay 3 ngày, tránh chung đụng với đàn bà, xuất hành vào ngày đẹp, giờ đẹp và trong quá trình đi rừng không được có ý nghĩ ám muội, gây gổ, đánh nhau...
Khi tìm thấy cây dó bầu có biểu hiện cho trầm thì phải nhịn đói để giữ mình tinh khiết, tìm đến suối tắm rửa sạch sẽ rồi cúng vái thần rừng để tạ ơn trước khi đốn hạ cây dó bầu tìm trầm.--PageBreak--
Công dụng của trầm, kỳ
Theo PGS Đinh Xuân Bá, mặc dù trầm, kỳ rất quý, có nhiều công dụng, song mỗi nước dùng một kiểu. Ở ta, gỗ có nhựa trầm, kỳ được dùng để làm tượng, các sản phẩm trang trí, chế tác đồ trang sức, làm vòng cho các vị sư vừa gõ mõ tụng kinh vừa lần tràng hạt. Trầm hương được người Việt sử dụng rất nhiều để làm nhang đốt cho có mùi thơm.
Hiện tại, công ty của ông Bá sản xuất khá nhiều loại hương làm từ trầm và chủ yếu cung cấp cho thị trường nước ngoài. Pháp là thị trường tiêu thụ chủ yếu các loại nhang trầm do ông làm ra. Chỉ cần đốt một nén nhang, căn phòng thoảng mùi rất dễ chịu.
Các thầy thuốc dân gian ở nước ta thường dùng trầm hương chế thuốc chữa những bệnh không có gì đặc biệt như: bổ dương, bổ thận, lợi tiêu hóa, trị tiêu chảy, chống nôn mửa, hen suyễn, đau bụng, giảm đau, trấn tĩnh, hạ sốt, cấm khẩu, khó thở, thấp khớp, dùng cho phụ nữ sau khi sinh...
Trong một số tài liệu Đông y thì kỳ nam có tác dụng lợi tiểu và điều trị một số bệnh tiêu hóa như đầy hơi, đau bụng, tiêu chảy thổ tả, trị gió, chống cảm mạo...
Một số đồng bào ở những vùng có nhiều trầm hương thường lấy gỗ trầm, kỳ sắc với nước uống hàng ngày như uống trà và loại nước này có tác dụng kháng khuẩn khá tốt.
Ở vùng cao tỉnh Khánh Hòa, đồng bào còn dùng cả cục kỳ nam bọc vào tấm vải treo ở cửa sổ để trừ tà khí. Trẻ em thì được đeo một miếng ở cổ hoặc tay và người ta xem đó như “bùa hộ mệnh”.
PGS Đinh Xuân Bá dùng trầm hương để ngâm rượu uống hàng ngày. Hễ có vị khách nào đến chơi là ông lôi cả tá bình rượu ngâm trầm hương cùng một số vị thuốc nữa ra mời. PGS Đinh Xuân Bá còn sáng chế ra một loại máy móc bé xíu để phân tán trầm hương ra không khí khiến không khí trong căn phòng rất dễ chịu.
Trong các sách Đông y còn nói cả đến tác hại của trầm, kỳ, theo đó, những phụ nữ mang thai mà uống tinh dầu trầm, kỳ sẽ bị trụy thai và những người suy nhược cơ thể, suy gan, hỏa tính mà dùng trầm, kỳ sẽ có hại cho cơ thể...
Các nước Trung Đông dùng nhiều trầm hương hơn cả. Họ bôi dầu trầm vào người hàng ngày cho thơm. Trong các nhà thờ, những nơi diễn ra các nghi lễ trang trọng, các tấm thảm để quỳ cũng được tẩm ướp dầu trầm. Dầu trầm được dùng nhiều trong việc tẩm vào vải để... bảo quản xác chết, giữ xác chết lâu phân rã, bốc mùi.
Những công nhân làm việc trong các mỏ khai thác dầu cũng dùng trầm hương hàng ngày như phụ nữ dùng kem dưỡng da. Họ bôi dầu trầm lên khắp cơ thể để trừ khí độc trước khi vào khu vực khai thác dầu mỏ. Với người Trung Đông, trầm hương là một loại sản phẩm thông dụng và được dùng vào những việc rất thông thường.
Một vị lãnh đạo của Hiệp hội Tinh dầu - Hương liệu - Mỹ phẩm từng phát biểu trong Hội nghị về cây trầm hương dưới sự bảo trợ của Tổ chức Dự án rừng mưa nhiệt đới (Hà Lan) rằng: Một lít tinh dầu trầm hương trên thế giới có giá 50.000 USD, nếu có xuất xứ từ Việt Nam sẽ có giá cao hơn nữa, xấp xỉ 1 tỉ đồng, vì trầm hương của Việt Nam có chất lượng cao hơn tiêu chuẩn quốc tế (?!). PGS Đinh Xuân Bá cho rằng, vị lãnh đạo trên phát biểu như thế là thiếu căn cứ, không xác thực và chẳng dựa trên cơ sở thực tế nào. |
Ở thị trường châu Âu, trầm hương được dùng trong công nghệ chế tác mỹ phẩm, đặc biệt là nước hoa. Tuy nhiên, buồn ở chỗ trầm hương không phải là thứ quý nhất trong những lọ nước hoa Pháp đắt tiền mà nó chỉ là chất định hương.
Mỗi lọ nước hoa to tướng người ta nhỏ vào vài giọt trầm để giữ được mùi hương lưu lại lâu hơn khi sử dụng. Tất nhiên, vai trò định hương là không thể thiếu để lọ nước hoa có giá trị, nhưng với khả năng sử dụng chỉ vài giọt thì các nhà máy chế biến nước hoa cũng không cần nguồn nguyên liệu nhiều lắm.
Kỳ nam hầu như ít được nhắc đến ở thị trường Trung Đông và châu Âu, điều đó không có nghĩa là nó quý quá, hiếm quá, tốt quá khiến người ta không có tiền để mua mà vì người ta không có nhu cầu sử dụng nó. Hiện tại, ông Bá chỉ thấy kỳ nam được tiêu thụ ở thị trường Đài Loan và Nhật Bản và theo các đồng nghiệp của ông thì nó được dùng để chế thuốc bắc, song đó là loại thuốc gì thì ông không biết.
Tuy nhiên, có một điều mà nhiều người biết về công dụng rất thông thường của kỳ nam ở Nhật Bản. Người Nhật dùng kỳ nam ngâm rượu uống hằng ngày và gọi đó là “kỳ nam tửu” và dùng bột kỳ nam tẩm ướp nướng gà gọi là “kỳ nam kê”. Với cách thức sử dụng trong cái ăn, cái uống thường nhật thì giá trị của kỳ nam không thể thần thánh hóa lên được.
Từ những thông tin về công dụng trên đây có thể thấy giá trị của trầm, kỳ cũng chỉ... đến thế mà thôi. Những lời đồn thổi, những thông tin giật gân mà báo chí nêu với giá trị vài trăm triệu đến tiền tỉ 1 kg là thiếu chính xác
Ngậm ngải tìm xuân ...
Bấy lâu ngậm ngải tìm xuân,
Thấy sương đầu cỏ, mưa mù núi xa...
Khuya nay trãi chiếu hiên nhà
Ngắm bông cúc nhỏ đãi ngàn dưới trăng
Ơ hay mới biết xuân rằng
Về đây một tối trong ngày chớm thu.
Saturday, October 16, 2010
Cổ vật và... đàn bà
Có người gọi ông là “Vua đồ cổ”, “Học giả”, “Nhà nghiên cứu Huế”, “Sử gia”, nhưng cũng chẳng ít người gọi ông là “Ông già gàn”! Nhưng cách gọi “thông tấn” nhất về ông có lẽ là người mở đường cho nghề mò tìm cổ vật trên sông Hương.
Triết lý từ chuyện... tán
Nghe tôi tỏ ý định về nhà ông Phan, người bạn Huế đã cười khảy: "Năm nào chẳng hàng chục nhà báo lần về ông Phan, người ta viết cạn mực, hết giấy ra rồi, còn gì nữa mà viết với vẽ". Đánh liều lên Google gõ từ khóa "Hồ Tấn Phan", quả thật, có tới hơn 3.000 kết quả! Thậm chí, có người còn dọa "Muốn phỏng vấn ông Phan phải trả thù lao cho ông, có khi bạc triệu".
Ông già 70 tuổi, lưng đã cánh cung nhưng giọng còn chất lắm. Tay rót trà mời khách lạ, miệng ông sang sảng: "Trước chưa biết thì chừ biết, rảnh xuống uống trà nói chuyện, trà nhà không thiếu". Khách tính đỡ ấm trà để rót mời chủ gọi là "kính lão đắc thọ", nhưng chủ gạt phắt: "Để tui rót, tui bài bản hơn". Ngẫm mà ức kẻ nào vẽ ra chuyện phải trả tiền mới được tiếp chuyện ông.
Giai thoại được nhiều lần thêu dệt
Nghe tôi mách lẻo có kẻ gieo tiếng xấu cho ông, ông Phan cười xòa, bởi theo ông, việc đặt điều lắm lúc cũng lại hay. Đã một lần được một người quen "đặt điều" một câu chuyện ra chiều duy tâm: Rằng có kẻ thấy nhà ông Phan lắm đồ cổ lại để khắp vườn chẳng thèm cửa ngõ bèn nảy lòng tham vào khoắng ít món. Về nhà chưa biết dùng vào việc gì thì đột nhiên đổ bệnh, thuốc thầy mãi không khỏi. Kẻ tham lam nọ nghĩ ngay đến những món đồ nhà ông Phan, liền gói ghém mang đến trả và làm lễ cúng bái trước vườn nhà ông. Quả nhiên hết bệnh. Ông Phan nào biết tên đạo chích rủi vận đó có tồn tại trên đời hay không, nhưng có lẽ nhờ đó mà ông chẳng thèm rào dậu, đóng cửa ngõ mà các món đồ trong vườn nhà ông, chẳng mất món nào.
Rồi tiện ông kể luôn một giai thoại khác về mình, rằng ông "gàn" đến mức trên mặc áo vest, dưới... mặc quần đùi (thậm chí còn có dị bản là dưới không mặc gì). Chuyện là năm 1999, Huế gánh cơn lũ lịch sử. Lũ chẳng tha nhà ông, cuốn vào rồi cướp mất hàng nghìn cuốn sách cổ, trong đó có nửa sau của bài nghiên cứu công phu ông đang viết dở. Giới nghiên cứu đọc phần đầu tâm đắc lắm, nhưng đợi mãi chẳng thấy phần sau liền gọi hỏi: "Làm gì như người trên mặc vest, dưới mặc quần đùi thế này?". Tam sao thất bản thế nào, cuối cùng nhiều người quay ra gọi ông là người trên vest, dưới... quần đùi.
Ông Phan triết lý: "Hạnh phúc trên đời chỉ có hai loại thôi. Một là hạnh phúc thật, hai là thứ hạnh phúc giả nhưng đến khi nhắm mắt con người ta vẫn tưởng là thật". Có lẽ, ông là người hạnh phúc thật, bởi ông có một kho tàng vô giá thật, thành quả của 30 năm lao vào lòng sông Hương để đeo đuổi tình yêu với cổ vật. Và hình như với những người hạnh phúc, mọi thứ phù phiếm chẳng còn ý nghĩa gì.
Cổ vật và... đàn bà
Gần nửa đời người đắm mình vì những cổ vật dưới đáy sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu, ông Phan "phán" một câu thật chí lý về đồ cổ: "Nhất dáng, nhì da, thứ ba của lạ". Ông nói đây là nói rằng một thứ đồ gốm quý phải có dáng đẹp, loại men quý phái và quan trọng nó phải "độc". Nói rồi, ông kết: "Đó, cổ vật cũng như phụ nữ rứa đó!".
Để minh chứng cho cái sự "cổ vật cũng như phụ nữ", ông gật gù rằng để có được một món đồ quý, người chơi đồ cổ không chỉ cần tiền, cần sự nhẫn nại mà còn cần cả cái duyên, cũng giống như trai gái yêu nhau, sống với nhau cũng cần cái duyên vậy. Có lẽ ông có cái duyên với đồ cổ thật, bởi đã không ít lần ông vừa mua được một bình gốm quý, đẹp với giá phải chăng thì đã có người tìm đến trả gấp đôi ba lần nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu.
Nhưng có một điểm khác đời của ông đó là trong khi lắm kẻ quân tử trút hết gia sản đổi lấy một nụ cười giai nhân thì của nả của ông lại "nướng" hết vào đồ cổ. Ông Phan có 7 đứa con thành đạt, luôn lo đủ cho ông tiền nong dưỡng già nhưng cứ hễ có tiền là ông lại bôn ra sông Hương mua cổ vật hoặc đi từ Bắc chí Nam để tầm sách quý. Đến sổ lương ông cũng mang đi thế chấp vì đồ cổ. Ông kể, có lần, nghe giới cổ vật đồn rằng dân vạn đò sông Hương vừa mò được một bình gốm quý liền hớt hải đến xem. "Kết" quá, ông say sưa ngả giá rồi ôm bình về mà quên mất rằng không mang theo đồng nào trong túi. "Vua đồ cổ" bèn cắn răng để bình lại, không quên dặn người bán bằng mọi giá giữ lại chờ ông xoay tiền. Chưa yên tâm, cả tuần liền ngày nào ông cũng đảo qua đôi lần để biết chắc bình quý vẫn chưa bị chủ nhân đem bán cho giới săn đồ cổ trả giá cao. Cuối cùng, vay giật bạn bè, "lột" cả tiền chợ của vợ ông mới được ôm cái bình trong tay như ấp ôm một người tình trẻ.
Nói khác đời cũng không hẳn phải. Đàn ông mê giai nhân vì cái đẹp, thì ông mê cổ vật cũng vì cái đẹp vậy. Có thể với người đời, những cái bình, lu, bát, chén sứt quai, mẻ vòi ngay đến giới đồng nát cũng bỏ đi, nhưng với ông mỗi món đồ đều ẩn trong nó một cái hồn. Hồn của văn hóa, của lịch sử, của cả những thế hệ ông cha. Ông có thể nói thao thao về một món đồ mà nhìn qua nó chẳng đáng một trinh, và kỳ lạ là sau khi nghe ông giảng giải thì món đồ đó trở nên vô giá. Ai lại đem văn hóa đi định giá bao giờ.
Tay mân mê lau chùi chiếc cối giã trầu bằng đồng thau mới mua được, ông Phan gật gù: "Có người hỏi tôi phụ nữ và đồ cổ có gì khác nhau. Tôi đã trả lời rằng: phụ nữ đẹp vậy đó nhưng chỉ có đàn ông mới thích, còn đồ cổ nhìn cũ kỹ, sứt mẻ vậy thôi mà ai cũng thích cả"!
Triết lý từ chuyện... tán
Nghe tôi tỏ ý định về nhà ông Phan, người bạn Huế đã cười khảy: "Năm nào chẳng hàng chục nhà báo lần về ông Phan, người ta viết cạn mực, hết giấy ra rồi, còn gì nữa mà viết với vẽ". Đánh liều lên Google gõ từ khóa "Hồ Tấn Phan", quả thật, có tới hơn 3.000 kết quả! Thậm chí, có người còn dọa "Muốn phỏng vấn ông Phan phải trả thù lao cho ông, có khi bạc triệu".
Ông già 70 tuổi, lưng đã cánh cung nhưng giọng còn chất lắm. Tay rót trà mời khách lạ, miệng ông sang sảng: "Trước chưa biết thì chừ biết, rảnh xuống uống trà nói chuyện, trà nhà không thiếu". Khách tính đỡ ấm trà để rót mời chủ gọi là "kính lão đắc thọ", nhưng chủ gạt phắt: "Để tui rót, tui bài bản hơn". Ngẫm mà ức kẻ nào vẽ ra chuyện phải trả tiền mới được tiếp chuyện ông.
Giai thoại được nhiều lần thêu dệt
Nghe tôi mách lẻo có kẻ gieo tiếng xấu cho ông, ông Phan cười xòa, bởi theo ông, việc đặt điều lắm lúc cũng lại hay. Đã một lần được một người quen "đặt điều" một câu chuyện ra chiều duy tâm: Rằng có kẻ thấy nhà ông Phan lắm đồ cổ lại để khắp vườn chẳng thèm cửa ngõ bèn nảy lòng tham vào khoắng ít món. Về nhà chưa biết dùng vào việc gì thì đột nhiên đổ bệnh, thuốc thầy mãi không khỏi. Kẻ tham lam nọ nghĩ ngay đến những món đồ nhà ông Phan, liền gói ghém mang đến trả và làm lễ cúng bái trước vườn nhà ông. Quả nhiên hết bệnh. Ông Phan nào biết tên đạo chích rủi vận đó có tồn tại trên đời hay không, nhưng có lẽ nhờ đó mà ông chẳng thèm rào dậu, đóng cửa ngõ mà các món đồ trong vườn nhà ông, chẳng mất món nào.
Rồi tiện ông kể luôn một giai thoại khác về mình, rằng ông "gàn" đến mức trên mặc áo vest, dưới... mặc quần đùi (thậm chí còn có dị bản là dưới không mặc gì). Chuyện là năm 1999, Huế gánh cơn lũ lịch sử. Lũ chẳng tha nhà ông, cuốn vào rồi cướp mất hàng nghìn cuốn sách cổ, trong đó có nửa sau của bài nghiên cứu công phu ông đang viết dở. Giới nghiên cứu đọc phần đầu tâm đắc lắm, nhưng đợi mãi chẳng thấy phần sau liền gọi hỏi: "Làm gì như người trên mặc vest, dưới mặc quần đùi thế này?". Tam sao thất bản thế nào, cuối cùng nhiều người quay ra gọi ông là người trên vest, dưới... quần đùi.
Ông Phan triết lý: "Hạnh phúc trên đời chỉ có hai loại thôi. Một là hạnh phúc thật, hai là thứ hạnh phúc giả nhưng đến khi nhắm mắt con người ta vẫn tưởng là thật". Có lẽ, ông là người hạnh phúc thật, bởi ông có một kho tàng vô giá thật, thành quả của 30 năm lao vào lòng sông Hương để đeo đuổi tình yêu với cổ vật. Và hình như với những người hạnh phúc, mọi thứ phù phiếm chẳng còn ý nghĩa gì.
Cổ vật và... đàn bà
Gần nửa đời người đắm mình vì những cổ vật dưới đáy sông Hương, sông Bồ, sông Ô Lâu, ông Phan "phán" một câu thật chí lý về đồ cổ: "Nhất dáng, nhì da, thứ ba của lạ". Ông nói đây là nói rằng một thứ đồ gốm quý phải có dáng đẹp, loại men quý phái và quan trọng nó phải "độc". Nói rồi, ông kết: "Đó, cổ vật cũng như phụ nữ rứa đó!".
Để minh chứng cho cái sự "cổ vật cũng như phụ nữ", ông gật gù rằng để có được một món đồ quý, người chơi đồ cổ không chỉ cần tiền, cần sự nhẫn nại mà còn cần cả cái duyên, cũng giống như trai gái yêu nhau, sống với nhau cũng cần cái duyên vậy. Có lẽ ông có cái duyên với đồ cổ thật, bởi đã không ít lần ông vừa mua được một bình gốm quý, đẹp với giá phải chăng thì đã có người tìm đến trả gấp đôi ba lần nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu.
Nhưng có một điểm khác đời của ông đó là trong khi lắm kẻ quân tử trút hết gia sản đổi lấy một nụ cười giai nhân thì của nả của ông lại "nướng" hết vào đồ cổ. Ông Phan có 7 đứa con thành đạt, luôn lo đủ cho ông tiền nong dưỡng già nhưng cứ hễ có tiền là ông lại bôn ra sông Hương mua cổ vật hoặc đi từ Bắc chí Nam để tầm sách quý. Đến sổ lương ông cũng mang đi thế chấp vì đồ cổ. Ông kể, có lần, nghe giới cổ vật đồn rằng dân vạn đò sông Hương vừa mò được một bình gốm quý liền hớt hải đến xem. "Kết" quá, ông say sưa ngả giá rồi ôm bình về mà quên mất rằng không mang theo đồng nào trong túi. "Vua đồ cổ" bèn cắn răng để bình lại, không quên dặn người bán bằng mọi giá giữ lại chờ ông xoay tiền. Chưa yên tâm, cả tuần liền ngày nào ông cũng đảo qua đôi lần để biết chắc bình quý vẫn chưa bị chủ nhân đem bán cho giới săn đồ cổ trả giá cao. Cuối cùng, vay giật bạn bè, "lột" cả tiền chợ của vợ ông mới được ôm cái bình trong tay như ấp ôm một người tình trẻ.
Nói khác đời cũng không hẳn phải. Đàn ông mê giai nhân vì cái đẹp, thì ông mê cổ vật cũng vì cái đẹp vậy. Có thể với người đời, những cái bình, lu, bát, chén sứt quai, mẻ vòi ngay đến giới đồng nát cũng bỏ đi, nhưng với ông mỗi món đồ đều ẩn trong nó một cái hồn. Hồn của văn hóa, của lịch sử, của cả những thế hệ ông cha. Ông có thể nói thao thao về một món đồ mà nhìn qua nó chẳng đáng một trinh, và kỳ lạ là sau khi nghe ông giảng giải thì món đồ đó trở nên vô giá. Ai lại đem văn hóa đi định giá bao giờ.
Tay mân mê lau chùi chiếc cối giã trầu bằng đồng thau mới mua được, ông Phan gật gù: "Có người hỏi tôi phụ nữ và đồ cổ có gì khác nhau. Tôi đã trả lời rằng: phụ nữ đẹp vậy đó nhưng chỉ có đàn ông mới thích, còn đồ cổ nhìn cũ kỹ, sứt mẻ vậy thôi mà ai cũng thích cả"!
Subscribe to:
Posts (Atom)